Bản án về tội trộm cắp tài sản số 108/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 108/2022/HS-ST NGÀY 24/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 73/2022/TLST-HS ngày 28/01/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 108/2022/QĐXXST-HS ngày 10/3/2022 đối với bị cáo:

Đỗ Đăng K; sinh năm 1988 tại Thành phố H. Không có nơi cư trú nhất định (không có nơi đăng ký hộ khẩu thường trú); Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hoá: 02/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Văn T, sinh năm 1948 (không rõ còn sống hay chết) và Đỗ Thị Phương L, sinh năm 1956 (còn sống). Bị cáo là con duy nhất trong gia đình; Chưa có vợ con; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.

Nhân thân:

Ngày 27/02/2006 bị cáo bị Tòa án nhân dân Quận H, Thành Phố H xử phạt 06 tháng tù theo Bản án số 10/2006/HSST ngày 27/02/2006, đã chấp hành xong.

Ngày 06/9/2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân Quận T, Thành phố H áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian chấp hành là 18 tháng theo Quyết định áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 510/QĐ-TA ngày 06/9/2016, đã chấp hành xong.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 20 tháng 10 năm 2021, sau đó chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 1164 ngày 28 tháng 10 năm 2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố B.

- Bị hại: Bà Nguyễn Thị Thu T, sinh năm 1975 Địa chỉ: 1369/1, khu phố B, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai (Bị cáo - có mặt tại phiên tòa, bị hại bà T - có đơn xin xét xử vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đỗ Đăng K là đối tượng không có nghề nghiệp và không có nơi ở nhất định. Để có tiền tiêu xài, K nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản. Thực hiện ý định trên, vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 19 tháng 10 năm 2021, K đi bộ đến khu vực phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai tìm tài sản để trộm cắp thì phát hiện cửa hàng vật liệu xây dựng “T” tại địa chỉ số 1369/1, tổ 13A, khu phố B, phường H do bà Nguyễn Thị Thu T (sinh năm 1975) làm chủ có dựng 01 chiếc xe môtô hiệu Yamaha Mio, biển số 39F1 - 3255 trước cửa tiệm, không có người trông coi, K liền sử dụng chiếc chìa khóa K mang theo sẵn trên người mở phá ổ khóa nguồn chiếc xe trên rồi nổ máy điều khiển xe tẩu thoát. Khi K điều khiển chiếc xe mới trộm cắp được đi đến tiệm game bắn cá (không rõ tên) thuộc tổ 11B, khu phố B, phường H thì bị anh Nguyễn Hoàng Bửu  (sinh năm 1985, ngụ tại số 63/2B, khu phố B, phường H) là cháu ruột của bà T nhà ở kế bên tiệm game nhận ra xe của bà T nên đã giữ K lại và trình báo Công an phường H lập hồ sơ chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B khởi tố, điều tra xử lý.

Vật chứng vụ án gồm:

- 01 chiếc xe mô tô biển số 39F1-3255, thu giữ của bị cáo K, là tài sản của bà Nguyễn Thị Thu T bị chiếm đoạt nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã trả lại cho bà T;

- 01 chiếc chìa khóa (có ghi chữ SYM 640) thu giữ được của bị cáo K, là công cụ bị caó K đã sử dụng thực hiện hành vi phạm tội;

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 436/KL-HĐĐGTS ngày 25 tháng 10 năm 2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố B kết luận: “01 xe mô tô biển số 39F1-3255 trị giá 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng)”.

Về dân sự: Bị hại là bà Nguyễn Thị Thu T đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt và không yêu cầu bồi thường.

Tại bản cáo trạng số 98/CT-VKSBH ngày 27/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Đỗ Đăng K về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

Bị cáo K khai nhận hành vi đúng như nội dung Cáo trạng, giữ nguyên lời khai tại Cơ quan điều tra, truy tố; đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo theo bản Cáo trạng. Sau khi xem xét đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo với mức hình phạt từ: 08 đến 10 tháng tù; đề nghị tịch thu tiêu hủy đối với 01 chiếc chìa khóa (có ghi chữ SYM 640) thu giữ được của bị cáo K, là công cụ bị caó K đã sử dụng thực hiện hành vi phạm tội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi và quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2]. Bị hại đã được triệu tập hợp lệ nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Tài sản trộm cắp đã được thu hồi và trả lại cho bị hại, bị hại không có yêu cầu nào khác do đó căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị hại.

[3]. Về tội danh: Tại phiên tòa lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án cũng như phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 19 tháng 10 năm 2021, tại khu vực phía trước cửa hàng vật liệu xây dựng “T” thuộc tổ 13B, khu phố B, phường H, thành phố B, tỉnh Đ, Đỗ Đăng K đã có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô biển số 39F1-3255 trị giá là 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) của bà Nguyễn Thị Thu T thì bị phát hiện. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Việc truy tố bị cáo theo Cáo trạng số 98/CT- VKSBH ngày 27/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B là có cơ sở đúng người, đúng tội.

[4]. Xét tính chất, mức độ của hành vi: Bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng tuy nhiên hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp xâm phạm tới quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật và bị cáo đã từng bị xử phạt về hành vi trộm cắp, nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần xử bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, sau khi xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo.

[5]. Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6]. Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu; Ngày 27/02/2006 bị cáo bị Tòa án nhân dân Quận H, Thành Phố H xử phạt 06 tháng tù theo Bản án số 10/2006/HSST ngày 27/02/2006, đã chấp hành xong. Ngày 06/9/2016 bị cáo bị Tòa án nhân dân Quận T, Thành phố H áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian chấp hành là 18 tháng theo Quyết định áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc số 510/QĐ-TA ngày 06/9/2016, đã chấp hành xong.

[7]. Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã được thu hồi và trả lại cho bị hại, bị hại không có yêu cầu nào khác nên không đặt ra xem xét [8]. Biện pháp tư pháp: Tịch thu tiêu hủy đối với 01 chiếc chìa khóa (có ghi chữ SYM 640) thu giữ được của bị cáo K, là công cụ bị caó K đã sử dụng thực hiện hành vi phạm tội [9]. Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thành phố B phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[10]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đỗ Đăng K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ điểm khoản 1 Điều 173, điểm h, s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ là ngày 20/10/2021.

Biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015: Tịch thu tiêu hủy đối với 01 chiếc chìa khóa (có ghi chữ SYM 640) thu giữ được của bị cáo K (Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 23/3/2022 giữa bên giao là Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố B và bên nhận là Chi cục thi hành án dân sự thành phố B).

2. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 108/2022/HS-ST

Số hiệu:108/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về