Bản án về tội trộm cắp tài sản số 107/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 107/2023/HS-ST NGÀY 15/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 84/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 105/2023/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 8 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Hồ Văn T, sinh năm 1985 tại C, A; nơi cư trú: tổ F, khóm C, phường C, thành phố C, tỉnh A; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hồ Văn B (chết) và bà Võ Thị T1; anh chị em ruột có 05 người, bị cáo là người thứ tư.

Tiền án: Ngày 24-01-2006, Tòa án nhân dân tỉnh A xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”; ngày 12-3-2009, chấp hành xong. Ngày 24-6-2010, Tòa án nhân dân thị xã (nay là thành phố) Châu Đ xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”), ngày 14-02-2014, chấp hành xong. Ngày 29-12- 2014, Tòa án nhân dân thành phố C xử phạt 07 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” và “Trộm cắp tài sản” (thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”), ngày 28-01-2021 chấp hành xong.

Tiền sự: không.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 28-01-2023 đến ngày 01-02-2023 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt.

2. Nguyễn Thị T2, sinh ngày 04-8-1989 tại tỉnh H; nơi đăng ký thường trú: tổ C, khóm C, phường C, thành phố C, tỉnh A; nơi cư trú: tổ F, khóm C, phường V, thành phố C, tỉnh A; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn D, bà Nguyễn Thị L (đều đã chết); có chồng là Nguyễn Hoàng V, sinh năm 1988 và có 04 người con, con lớn sinh năm 2007, con nhỏ nhất sinh năm 2022.

Nhân thân: Vào các ngày 19-3-2021, 08-5-2021 có hành vi trộm cắp tài sản, trị giá tài sản dưới định lượng, Công an thành phố C xử phạt vi phạm hành chính. Ngày 23-7-2022, thực hiện hành vi “hủy hoại tài sản” bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố C khởi tố, cấm đi khỏi nơi cư trú, đến ngày 15- 02-2023, Tòa án nhân dân thành phố C xử phạt 09 tháng tù, đang chấp hành án tại nhà tạm giừ Công an thành phố C (ngày 13-7-2023) (các lần bị xử phạt vi phạm hành chính chưa nộp phạt).

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo đang chấp hành án, có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Ông Lê Quốc K, sinh năm 1989, nơi cư trú: tổ A, khóm L, phường L, thị xã T, tỉnh A; vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Ông Nguyễn Hoàng V (Zìn), sinh năm 1954, nơi cư trú: tổ F, khóm C, phường V, thành phố C, tỉnh A; có mặt.

- Ông Phan Diễm P, sinh năm 1972, nơi cư trú: tổ A, khóm A, phường C, thành phố C, tỉnh A; vắng mặt.

Người làm chứng: Võ Thị Mỹ L1, sinh năm 1995; Võ Văn Q, sinh năm 1972; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 24-01-2023, Hồ Văn T đến trại mộc của Võ Văn Q (cậu ruột T) thuộc khóm H, phường C, thành phố C uống rượu cùng với Q, Lê Quốc K, Phạm Thị M, Võ Thị Mỹ L1, Võ Văn G, Nguyễn Thành Q1, Lý Thị Kim N và Hồ Văn T3; đến khoảng 16 giờ cùng ngày, G, Q1, N, T3 đi về; K để chìa khoá xe mô tô biển số 67H1-xxxxx của K trên bàn rượu, cùng M, L1 vào bên trong trại mộc ngủ. Thấy xe mô tô của K dựng phía trước trại mộc, T nảy sinh ý định lấy trộm xe. T tiếp tục uống rượu cùng Q đến khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày thì nghỉ; lợi dụng lúc Qưới dọn dẹp, không có người, T lấy chìa khoá, điều khiển xe mô tô của K đến tiệm game bắn cá “Như L2” thuộc khóm C, phường V, thành phố C gặp Nguyễn Thị T2, T nói cho T2 biết xe lấy trộm được, nhờ T2 đem cầm, lấy tiền tiêu xài, T2 đồng ý, kêu T chở về nhà T2 thuộc tổ F, khóm C, phường V, T2 nhờ Nguyễn Hoàng V (chồng T2) tìm chỗ cầm xe giá 5.000.000 đồng. Nghĩ xe của T, V đồng ý, mang đến tiệm game bắn cá “Huỳnh Mai” thuộc tổ A, khóm C, phường C B, thành phố C cầm cho Phan Diễm P được 6.900.000 đồng, V đưa T 5.000.000 đồng như đã thoả thuận, giữ lại 1.900.000 đồng. Nhận tiền, T cho V 1.000.000 đồng, T2 1.500.000 đồng, 2.500.000 đồng còn lại T sử dụng mua ma tuý, tiêu xài hết. Ngày 27-01-2023, V đến gặp P lấy thêm tiền cầm xe 500.000 đồng, không cho T biết, số tiền có được từ việc cầm xe V tiêu xài hết. K trình báo Cơ quan Công an, bị phát hiện, T đầu thú; mời T2 làm việc, cả hai thừa nhận thực hiện hành vi nêu trên.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô biển số 67H1-xxxxx, nhãn hiệu Honda, số loại Wave, màu sơn xanh đen bạc (đã trao trả cho bị hại K); 01 đĩa DVD lưu trữ đoạn Camera ghi nhận hình ảnh Hồ Văn T lấy trộm xe mô tô của K vào ngày 24-01-2023 (lưu hồ sơ vụ án); 01 quần đùi màu vàng đen.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 135/KL-DG ngày 30-01-2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố C ghi nhận: 01 xe mô tô biển số biển số 67H 1-xxxxx, nhãn hiệu Honda, số loại Wave, màu sơn xanh đen bạc, trị giá 13.000.000 đồng (bút lục 180 - 182).

Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố C khởi tố, tạm giam Hồ Văn T; cấm đi khỏi nơi cư trú đối với Nguyễn Thị T2 để điều tra, xử lý.

Tại Cáo trạng số 82/CT-VKSCĐ-HS ngày 25 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố C đã truy tố Hồ Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Nguyễn Thị T2 về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 (Bộ luật Hình sự năm 2015).

Tại cơ quan điều tra và tại phiên toà sơ thẩm, các bị cáo Hồ Văn T, Nguyễn Thị T2 khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Hoàng V1 (Zìn) khai nhận phù hợp với nội dung Cáo trạng đã nêu. Xác định số tiền đã nhận từ T, P và tiền sửa chữa xe đồng ý trả lại cho ông P.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Phan Diễm P và người làm chứng vắng mặt phiên toà nhưng quá trình điều tra khai nhận phù hợp với nội dung Cáo trạng đã nêu (từ bút lục 143-160).

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với các bị cáo, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo như Cáo trạng đã nêu. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Hồ Văn T từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”;

Áp dụng khoản 1 Điều 323, điềm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T2 từ 09 tháng đến 01 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 tổng hợp hình phạt với Bản án số 16/2023/HS-ST ngày 15-02-2023 của Tòa án nhân dân thành phố C phải chịu hình phạt chung là từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung, các bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng.

Áp dụng Điều 46, 47 và Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; các Điều 584, 585, 586, 587, 589 Bộ luật Dân sự năm 2015: Tiếp tục lưu hồ sơ vụ án 01 đĩa DVD lưu trữ đoạn camera ghi nhận hình ảnh Hồ Văn T lấy trộm xe mô tô, tịch thu tiêu hủy quần đùi (đã qua sử dụng) là trang phục bị cáo T mặc khi thực hiện hành vi phạm tội; buộc các bị cáo T, T2 và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyên Hoàng V liên đới bồi thường cho ông P tương ứng số tiền có được từ việc chiếm đoạt tài sản của bị hại K; quyết định về án phí, quyền kháng cáo; Đối với Nguyễn Hoàng V, Phan Diễm P đã mang xe mô tô Hổ Văn T4 lấy trộm đi cầm và nhận cầm xe, không biết tài sản do trộm mà có tuy không xử lý nhưng cần giáo dục công khai tại phiên tòa.

Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Hoàng V (Zìn) không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên; trong lời nói sau cùng các bị cáo T4, T2 xin Hội đồng xét xử xử phạt nhẹ để sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

- Tại phiên toà, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Phan Diễm P, người làm chứng vắng mặt, mặc dù Tòa án đã tống đạt giấy triệu tập hợp lệ. Xét thấy, sự vắng mặt của họ không gây trở ngại gì đến việc xét xử của vụ án. Căn cứ các Điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về nội dung: Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, các bị cáo Hồ Văn T, Nguyễn Thị T2 đều khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra; phù hợp với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, biên bản tiếp nhận người phạm tội ta đầu thú do Công an phường C, thành phố C lập cùng ngày 27-01- 2023; biên bản khám nghiệm hiện trường, bản ảnh cùng sơ đồ hiện trường do Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố C lập ngày 28/01/2023; 01 đĩa DVD lưu trữ đoạn Camera ghi nhận hình ảnh Hồ Văn T lấy trộm xe mô tô của Lê Quốc K vào ngày 24-01-2023; kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 135/KL-ĐG ngày 30-01-2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố C cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ căn cứ kết luận:

Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 24-01-2023, tại khu vực khóm H, phường C, thành phố C, tỉnh A, lợi dụng Lê Quốc K ngủ do say rượu, chìa khoá xe để trên bàn, không người trông giữ, bị cáo Hồ Văn T đã có hành vi lén lút chiếm đoạt xe mô tô biển số 67H1-xxxxx của K được xác định trị giá 13.000.000 đồng điều khiển đến gặp Nguyễn Thị T2. Khi đó, T nói cho T2 biết xe mới lấy trộm được nhờ T2 đem cầm, lấy tiền tiêu xài, T2 biết xe mô tô T lấy trộm của người khác nhưng vẫn đồng ý nhận cầm cho T; T2 nhờ chồng là Nguyễn Hoàng V tìm chỗ cầm xe, giá 5.000.000 đồng nhưng không nói cho V biết xe do T trộm cắp mà có. V cầm xe cho Phan Diễm P được 6.900.000 đồng nhưng chỉ đưa cho bị cáo T 5.000.000 đồng; T cho V 1.000.000 đồng, cho T2 1.500.000 đồng, còn 2.500.000 đồng T sử dụng ma tuý, tiêu xài hết. Phát hiện mất xe, K trình báo Công an, T đầu thú, Công an mời T2 làm việc, T và T2 thừa nhận đã thực hiện hành vi nêu trên.

Đối với bị cáo T, ngày 29-12-2014, Tòa án nhân dân thành phố C, tỉnh A xử phạt bị cáo T 07 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” và “Trộm cắp tài sản” (thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”), ngày 28-01-2021, chấp hành xong, chưa được xoá án tích mà còn tiếp tục vi phạm trộm cắp tài sản của Lê Quốc K, trị giá 13.000.000 đồng. Do đó, hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo Hồ Văn T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt tù từ 02 năm đến 07 năm (tội phạm nghiêm trọng).

Đối với bị cáo T2, mặc dù biết xe mô tô do bị cáo T chiếm đoạt của người khác có được nhung vì hám lợi, đồng ý mang xe đi tiêu thụ, trị giá tài sản tiêu thụ 13.000.000 đồng. Do đó, hành vi phạm tội nêu trên của bị cáo Nguyễn Thị T2 đã phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt là phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm (tội phạm ít nghiêm trọng).

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu của người khác, trật tự quản lý Nhà nước đối với tài sản do phạm tội mà có mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, cần có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của từng bị cáo để đảm bảo tính ran đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[3] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Các bị cáo Hồ Văn T, Nguyễn Thị T2 là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo T nhận thức rõ hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhung vẫn cố ý thực hiện, bị cáo T2 biết rõ hành vi của bị cáo T là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn đồng ý mang xe do bị cáo T phạm tội mà có đi tiêu thụ với mục đích có tiền sử dụng ma tuý và tiêu xài. Trước khi phạm tội, bị cáo T là người có nhiều tiền án về các tội phạm có tính chất chiếm đoạt tài sản; bị cáo T2 nhiều lần chiếm đoạt tài sản của người khác, bị xử phạt vi phạm hành chính, đang chấp hành án về tội “Hủy hoại tài sản”. Điều này thể hiện, các bị cáo là người có nhân thân xấu, xem thường pháp luật, không biết ăn năn hối cải.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà các bị cáo đã thành khẩn khai báo; thuộc thành phần nhân dân lao động, học lực thấp nên hiểu biết pháp luật có phần hạn chế; bị cáo T đến Cơ quan Công an đầu thú. Đây là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Xét tính chất của vụ án là nghiêm trọng, xâm phạm quan hệ sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật hình sự bảo vệ, trật tự quản lý Nhà nước đối với tài sản do phạm tội mà có và gay mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó, việc buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù cách ly khỏi xã hội là cần thiết, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà để buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo. Mức hình phạt tù có thời hạn mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là tương xứng với tính chất mức độ phạm tội mà các bị cáo đã gây ra, đề nghị này được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng và theo quy định tại khoản 5 Điều 323 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, các bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, điều kiện hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho các bị cáo.

[5] Về biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng:

- Tiếp tục lưu hồ sơ vụ án 01 dĩa DVD lưu trữ đoạn camera ghi nhận hình ảnh Hồ Văn T lấy trộm xe mô tô.

- Trong giai đoạn điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố C đã giao trả cho bị hại Lê Quốc K 01 xe mô tô biển số 67H1-xxxxx là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự nên không đề cập xử lý lại.

- Đối với 01 quần đùi bị thu giữ là trang phục của bị cáo T mặc khi thực hiện hành vi phạm tội đối với bị hại K nên đây là vật có giá trị chứng minh tội phạm, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[6] Về trách nhiệm dân sự:

Số tiền cầm xe mô tô chiếm đoạt có được bị cáo T, T2, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Hoàng V chia nhau tiêu xài nên buộc bị cáo T, bị cáo T2 và V có trách nhiệm bồi thường cho ông Phan Diễm P tương ứng số tiền đã nhận, cụ thể: bị cáo T bồi thường 2.500.000 đồng; bị cáo T2 bồi thường 1.500.000 đồng; Nguyễn Hoàng V bồi thường 4.120.000 đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.

[7] Các vấn đề khác: Nguyễn Hoàng V, Phan Diễm P đã mang xe mô tô Hồ Văn T lấy trộm đi cầm và nhận cầm xe này, không biết tài sản do trộm cắp mà có, tuy không xử lý nhưng công khai giáo dục tại phiên toà.

[8] Về án phí và quyền kháng cáo:

Bị cáo Hồ Văn T, Nguyễn Thị T2 phải chịu án phí hình sự và án phí dân sự theo quy định. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Nguyễn Hoàng V phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Hồ Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Xử pht: Hồ Văn T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bị bắt tạm giữ, ngày 28-01-2023 (ngày hai mươi tám, tháng một, năm hai nghìn không trăm hai mươi ba).

2. Căn cứ vào khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị T2 phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; Xử phạt: Nguyễn Thị T2 09 (chín) tháng tù.

Áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tổng hợp hình phạt của 02 bản án (Bản án số 16/2023/HS-ST ngày 15-02- 2023 của Tòa án nhân dân thành phố C (09 tháng tù)), bị cáo Nguyễn Thị T2 phải chịu hình phạt chung là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù của bị cáo được tính kể từ ngày bắt chấp hành án Bản án số 16/2023/HS-ST ngày 15-02-2023 của Tòa án nhân dân thành phố C (ngày 13-7-2023).

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào đim a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; đim a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật T tụng hình sự năm 2015:

- Tiếp tục lưu hồ sơ vụ án 01 dĩa DVD lưu trữ đoạn camera ghi nhận hình ảnh Hồ Văn T lấy trộm xe mô tô.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) quần đùi (đã qua sử dụng).

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 14 tháng 9 năm 2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C với Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố C).

4. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, b sung năm 2017; các Điều 584, 585, 586, 587 và 589 B luật Dân sự năm 2015.

Buộc bị cáo Hồ Văn T có trách nhiệm bồi thường cho ông Phan Diễm P số tiền 2.500.000 đồng (hai triệu, năm trăm nghìn đồng).

Buộc bị cáo Nguyễn Thị T2 có trách nhiệm bồi thường cho ông Phan Diễm P số tiền 1.500.000 đồng (một triệu, năm trăm nghìn đồng).

Buộc ông Nguyễn Hoàng V (Z) có trách nhiệm bồi thường cho ông Phan Diễm P số tiền 4.120.000 đồng (bốn triệu, một trăm hai mươi nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự 2015.

5. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23, Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miên, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Hồ Văn T phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Buộc bị cáo Nguyễn Thị T2 phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

Buộc ông Nguyễn Hoàng V (Z) phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, các bị cáo Hồ Văn T, Nguyễn Thị T2, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Nguyễn Hoàng V (Zìn) có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh A xét xử phúc thẩm.

Riêng thời hạn kháng cáo của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án Phan Diễm P vắng mặt tại phiên tòa là 15 ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

22
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 107/2023/HS-ST

Số hiệu:107/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Châu Đốc - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về