Bản án về tội trộm cắp tài sản số 104/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN C – TỈNH L

BẢN ÁN 104/2021/HS-ST NGÀY 19/10/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 19 tháng 10 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện C, tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 108/2021/TLST - HS ngày 14 tháng 9 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 111/2021/QĐXXST-HS, ngày 07 tháng 10 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên Nguyễn Minh H, sinh năm: 1994.

Nơi ĐKTT và chỗ ở: 638/55 Ấp 2, xã Bình Hưng, huyện B, thành phố X; trình độ học vấn: 10/12; nghề nghiệp: không; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: V Nam; con ông Nguyễn Văn S và bà Nguyễn Thị Kiều V; bản thân có vợ tên Nguyễn Thị Tuyết M, chưa con; tiền án: không; tiền sự: Ngày 07/7/2015 Tòa án nhân dân huyện B, TP X, ra Quyết định số 161/QĐ-TA, về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 24 tháng. Đã chấp hành xong ngày 04/6/2017. Ngày 10/7/2019 Tòa án nhân dân huyện B, TP X, ra Quyết định số 383/QĐ-TA, về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 18 tháng, kể từ ngày 22/4/2019. Đã chấp hành đến ngày 30/4/2020 bỏ trốn khỏi cơ sở cai nghiện ma túy Phước Bình. Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 26/5/2021 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

- Ngƣời bị hại: Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm: 1978 (vắng mặt).

Cư trú: 219/3 Âu Dương Lân, Phường 3, Quận X, thành phố X.

- Ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Phạm Văn V, sinh năm: 1973 (vắng mặt).

2/ Phạm Nhật T, sinh năm: 2001 (vắng mặt).

Cùng cư trú: ấp Xóm Mới, xã Kiểng Phước, huyện Đ, tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và qua quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 00 ngày 22/5/2021, Đinh Văn S điều khiển xe mô tô BS: 63B7-X chở Nguyễn Minh H từ thành phố X về nhà của S ở huyện Cần Đước, tỉnh L, chơi. Khi đến quán cháo lòng của anh Nguyễn Văn Quốc thuộc khu phố Hòa Thuận 2, thị trấn C, huyện C thì cả hai ghé vào quán của anh Quốc để mua cháo. Lúc này, H phát hiện xe mô tô Vison màu đỏ, biển số 59L2-X của chị Nguyễn Thị Thu H1, đang đậu tại quán, trên xe có gắn chìa khóa, H nảy sinh ý định trộm xe mô tô trên. H khai nhận có bàn với S lấy trộm xe bán lấy tiền chia nhau tiêu xài thì S đồng ý. H đến vị trí xe mô tô đang đậu, quan sát thấy chị H1 không để ý nên lén lút lên xe, sau đó nổ máy tẩu thoát về hướng thành phố Hồ Chi Minh. Khi đến thành phố X, H khai nhận có dùng điện thoại Nokia liên lạc với S thì S cho H số điện thoại của đối tượng tên Phúc (không rõ lai lịch địa chỉ) để H liên lạc với Phúc bán xe. Khi đến công viên Phú Lâm thuộc Quận 6, thành phố X, H liên lạc với Phúc, nhờ Phúc đem bán được 4.500.000 đồng, H cho Phúc 500.000 đồng, còn lại chia đôi, bị cáo và S mỗi người 2.000.000 đồng. Sau khi phát hiện bị mất xe, chị H1 đến cơ quan Công an trình báo. Qua truy xét và làm việc Nguyễn Minh H đã thừa nhận hành vi cùng với S lấy cắp xe mô tô trên, riêng S đã bỏ khỏi địa phương đi đâu không rõ, cơ quan CSĐT Công an huyện chưa làm việc được.

Tại kết luận định giá tài sản số: 40/KLĐG ngày 26/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C, xác định: 01 (Một) xe môtô hiệu Honda, loại Vision, màu đỏ - đen, biển số: 59L2 – X, số máy: JF58E0319741, số khung: 5807EY433943; Xe đã qua sử dụng, xe đăng ký lần đầu ngày 21/01/2016 (Tài sản không thu hồi được). Hội đồng thống nhất xác định giá trị tài sản trên là: 17.530.000 đồng (Mười bảy triệu, năm trăm ba mươi nghìn đồng).

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã nhìn nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại bản cáo trạng số 114/CT-VKSCG, ngày 14/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự. Xử phạt:

Nguyễn Minh H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Trách nhiệm dân sự: đề nghị áp dụng các Điều 584; 585 và 589: Buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại Nguyễn Thị Thu H1 số tiền 17.530.000 đồng.

Về tang vật thu giữ: đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự. Tịch thu sung nộp ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, sim số 0935.766.X bị cáo khai dùng để liên lạc để bán xe. Đối với: 01 (một) xe môtô, hiệu Yamaha, màu đỏ đen, biển số 63B7 – X và giấy chứng nhận đăng ký xe là tài sản của Phạm Nhựt T, T cho S mượn và không biết S dùng làm phương tiện phạm tội, nên cơ quan CSĐT đã hoàn trả cho anh T; 01 (một) điện thoại di động Samsung grand prime, sim số 0908.710.X; 01 (một) mũ bảo hiểm màu đen, hiệu nón sơn; 01 (một) áo sơmi dài tay màu đen; 01 (một) áo thun ngắn tay màu đỏ; 01 (một) quần sọt caro màu trắng xanh đen; 01 (một) đôi dép quay kẹp, hiệu Nike, màu xanh đen là tài sản của bị cáo không liên quan đến vụ án nên Cơ quan CSĐT đã trả lại cho bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Bị cáo trong lời nói sau cùng xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Cân Giuộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện C, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Vào khoảng 11 giờ 00 ngày 22/5/2021, Đinh Văn S điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Minh H ghé quán cháo lòng của anh Nguyễn Văn Quốc thuộc khu phố Hòa Thuận 2, thị trấn C, huyện C để mua cháo. Tại đây, H phát hiện xe mô tô Vison màu đỏ, biển số 59L2-X của chị Nguyễn Thị Thu H1, đang đậu tại quán, trên xe có gắn chìa khóa, H nảy sinh ý định lấy trộm bán lấy tiền tiêu xài. H quan sát thấy chị H1 không để ý nên lén lút lấy trộm rồi đem đến Tp. X nhờ đối tượng tên Phúc (không rõ nhân thân) bán được 4.500.000 đồng, H cho Phúc 500.000 đồng, số tiền còn lại bị cáo khai chia đôi cho S và bị cáo mỗi người 2.000.000 đồng. Tại kết luận định giá tài sản số: 40/KLĐG ngày 26/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C, xác định xe môtô hiệu Honda, loại Vision, màu đỏ - đen, biển số: 59L2 – X trị giá là:

17.530.000 đồng. Tài sản bị cáo chiếm đoạt có giá trị trên 2.000.000 đồng và dưới 50.000.000 đồng, nên hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “trộm cắp tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự an toàn xã hội, gây mất an ninh trị an tại địa phương. Bị cáo nhận thức được hành vi lén lút lấy trộm tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện tội phạm.

[4] Xét về tính tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự: không.

[5] Xét về tính tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo theo quy định tại Điều 51 Bộ luật hình sự: bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo phạm tội nhưng thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Xét về nhân thân: bị cáo có 02 tiền sự: Ngày 07/7/2015 Tòa án nhân dân huyện B, TP X, ra Quyết định số 161/QĐ-TA, về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 24 tháng. Đã chấp hành xong ngày 04/6/2017. Ngày 10/7/2019 Tòa án nhân dân huyện B, TP X, ra Quyết định số 383/QĐ-TA, về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời gian 18 tháng, kể từ ngày 22/4/2019. Đã chấp hành đến ngày 30/4/2020 bỏ trốn khỏi cơ sở cai nghiện ma túy Phước Bình. Do đó xét thấy cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, mới có thể giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội. Xét thấy bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[7] Đối với Đinh Văn S là người Nguyễn Minh H khai nhận cùng thực hiện hành vi lấy cắp xe mô tô, hiện S đã bỏ địa phương đi đâu không rõ, ngoài lời khai của H thì không còn chứng cứ nào khác xác định S thống nhất ý chí cùng H lấy trộm tài sản nên cơ quan CSĐT Công an huyện C, đã ra Quyết định tách vụ án hình sự số 12/QĐ-CSĐT, ngày 04/8/2021, là phù hợp. Đối với đối tượng tên Phúc theo bị cáo khai là người bán giùm xe mô tô lấy trộm nhưng quá trình điều tra không xác định được lai lịch của Phúc, nên không xem xét.

[8] Về tang vật thu giữ: đối với 01 (một) xe môtô, hiệu Yamaha, màu đỏ đen, biển số 63B7 – X và giấy chứng nhận đăng ký xe, qua điều tra, xác định đây là tài sản hợp pháp của anh Phạm Nhựt T, anh T cho S mượn và không biết S dùng làm phương tiện phạm tội, nên cơ quan CSĐT đã hoàn trả cho anh T, là phù hợp. Đối với 01 (một) điện thoại di động Samsung grand prime, sim số 0908.710.X; 01 (một) mũ bảo hiểm màu đen, hiệu nón sơn; 01 (một) áo sơmi dài tay màu đen; 01 (một) áo thun ngắn tay màu đỏ; 01 (một) quần sọt caro màu trắng xanh đen; 01 (một) đôi dép quay kẹp, hiệu Nike, màu xanh đen. Đây là tài sản và vật dụng cá nhân của bị cáo không liên quan đến vụ án nên Cơ quan CSĐT đã trả lại cho bị cáo, là phù hợp. Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia lắp sim số 0935.766.X bị cáo khai nhận là dùng để liên lạc với đối tượng tên Phúc để bán xe, nên tịch thu sung nộp ngân sách Nhà nước là phù hợp với Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự.

[9] Về trách nhiệm dân sự: tài sản không thu hồi được, tại phiên tòa chị H1 vắng mặt, nhưng theo hồ sơ thể hiện (bút lục 70) chị H1 yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 17.530.000 đồng. Trước yêu cầu của chị H1, tại phiên tòa bị cáo đồng ý, nên ghi nhận [10] Về án phí: bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm và chịu án phí dân sự sơ thẩm trên số tiền phải bồi thường cho chị H1 là 17.530.000 đồng theo quy định của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Minh H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 26/5/2021.

Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự. Tiếp tục tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (19/10/2021) để đảm bảo việc kháng cáo, kháng nghị và thi hành án.

Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 47 Bộ luật hình sự.

Về tang vật: tịch thu sung nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia và sim điện thoại di động số 0935.766.X.

Hiện vật chứng trên Chi cục thi hành án dân sự huyện C đang tạm giữ theo Quyết định chuyển vật chứng số 85/QĐ-VKSCG, ngày 14/9/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C.

Căn cứ Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584; 585 và 589; Điều 357; Điều 468 Bộ luật dân sự.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Minh H phải có trách nhiệm bồi thường cho chị Nguyễn Thị Thu H1 số tiền 17.530.000 đồng (mười bảy triệu, năm trăm ba mươi ngàn đồng).

Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất pháp luật quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác Về án phí: bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 876.500 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai báo cho bị cáo có mặt biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 104/2021/HS-ST

Số hiệu:104/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lộc - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về