Bản án về tội trộm cắp tài sản số 102/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ L, TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 102/2022/HS-ST NGÀY 29/11/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 29 tháng 11 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã L, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 93/2022/TLST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 11 năm 2022, đối với bị cáo:

i Châu B, sinh năm 1995 tại Kiên Giang;

Nơi cư trú: Thôn Mũi Đá, xã Tân Phước, thị xã L, tỉnh Bình Thuận; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 10/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha: Bùi Văn T, sinh năm 1972; Mẹ: Nguyễn Ngọc D, sinh năm 1975; Gia đình có 03 anh, chị, em; bị cáo là con thứ nhất.

Vợ: Trần Thị X (đã ly hôn); Con: Có 01 con sinh năm 2015. Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 10.7.2021, bị Công an thị xã L xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Trộm cắp tài sản” tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 006259.

Bị cáo hiện đang bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

* Bị hại: Ông Bùi Văn T – sinh năm 1972. Có đơn xin xử vắng mặt.

HKTT: Thôn Mũi Đá, xã Tân Phước, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn C – sinh năm 1996. Vắng mặt.

HKTT: Thôn Thanh Linh, xã Tân Phước, thị xã L, tỉnh Bình Thuận.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào trưa ngày 19.4.2022, ông Bùi Văn T để điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A12 ở nhà cho cháu nội chơi rồi đi đám cưới. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, bị cáo Bùi Châu B (con ruột ông T) ngủ dậy thấy điện thoại của ông T để trên ghế Sofa trong phòng khách nên nảy sinh ý định lấy trộm điện thoại của ông T đi cầm cố để lấy tiền tiêu xài. Thực hiện ý định này, bị cáo B lấy điện thoại bỏ vào trong túi quần rồi đi ra khỏi nhà, bị cáo B dùng điện thoại gọi cho Nguyễn Văn C để cầm cố điện thoại với giá 2.500.000 đồng thì C đồng ý. Sau đó, bị cáo B nhờ Nguyễn Thanh T đem điện thoại đến đưa cho C, C chuyển 2.500.000 đồng vào tài khoản ứng dụng MoMo cho bị cáo B. Sau khi cầm điện thoại được tiền, bị cáo B đến phòng trọ thuộc phường Tân Thiện, thị xã L sống chung với bạn gái. Sau khi tiêu xài hết tiền, đến ngày 29.4.2022, bị cáo B quay về nhà thì ông T làm đơn trình báo với chính quyền địa phương, Công an xã Tân Phước đưa bị cáo B về trụ sở để làm việc thì B đã khai nhận hành vi phạm tội của mình, Công an xã Tân Phước đã thu giữ được điệ n thoại Samsung Galaxy A12 rồi chuyển cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã L để xử lý theo thẩm quyền.

*Tại Kết luận định giá tài sản số: 20/KL-ĐGTS ngày 12/5/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã La Gi, kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A12, màu xanh đen, Seri R58RA2V7A9A, Imei 357026895330516, đã qua sử dụng, còn hoạt động, có giá trị là 2.800.000 đồng.

Về vật chứng vụ án: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A12, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã L đã trả cho chủ sở hữu là ông Bùi Văn T.

Về dân sự: Sau khi bị hại Bùi Văn T nhận lại tài sản thì bị hại không yêu cầu gì về phần dân sự; còn Nguyễn Văn C yêu cầu bị cáo Bùi Châu B phải trả lại số tiền 2.500.000 đồng.

Sau khi phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân của bị cáo; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã L giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung bản Cáo trạng số: 103/CT-VKS ngày 02/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố bị cáo, về tội: “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố: Bị cáo Bùi Châu B, phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Châu B từ: 09 đến 12 tháng tù. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Bùi Châu B phải hoàn trả cho ông Nguyễn Văn C số tiền 2.500.000 (Hai triệu năm trăm nghìn) đồng.

- Ý kiến của bị cáo Bùi Châu B: Đồng ý với nội dung luận tội của Kiểm sát viên nên không có ý kiến tranh luận.

* Bị cáo Bùi Châu B nói lời sau cùng: Bị cáo thấy hành vi của mình là sai, xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã L, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã L, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự có mặt của người tham gia tố tụng tại phiên tòa: Bị hại ông Bùi Văn T có đơn xin xử vắng mặt và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt. Ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo là đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử xét thấy, việc vắng mặt của bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không gây trở ngại cho việc xét xử, vì lời khai của họ đã khai đầy đủ thể hiện rõ trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt là phù hợp với quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi phạm tội: Xét thấy, lời khai của bị cáo Bùi Châu B tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại và đối chiếu với những tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án, đủ cơ sở và căn cứ pháp lý để Hội đồng xét xử kết luận: Vào khoảng 14 giờ ngày 19.4.2022, bị cáo B đang ở nhà thuộc thôn Mũi Đá, xã Tân Phước, thị xã L, bị cáo Bùi Châu B đã lấy chiếc điện thoại Sam Sung Galaxy A12 trị giá 2.800.000 đồng của cha ruột là ông Bùi Văn T để đem đi cầm cố lấy tiền tiêu xài. Đến ngày 29.4.2022, hành vi phạm tội của bị cáo Bùi Châu B bị phát hiện, Công an xã Tân Phước đã thu giữ vật chứng rồi chuyển cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã L để xử lý theo thẩm quyền.

Qua đó cho thấy hành vi của bị cáo Bùi Châu B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã L truy tố đối với bị cáo Bùi Châu B về tội danh, điều luật áp dụng là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội: Bị cáo Bùi Châu B đã lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài sản của người khác để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Như vậy, hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác, do đó hành vi của bị cáo là xem thường pháp luật, ảnh hưởng đến an ninh trật tự của địa phương và nguy hiểm cho xã hội.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: Không; Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo B thành khẩn khai báo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt: Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo đã nhận thức rõ được “Trộm cắp tài sản” của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vì lợi ích bản thân, bị cáo bất chấp. Vì vậy, cần xử lý nghiêm khắc nhằm cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo lao động, học tập, giáo dục trở thành con người có ích cho gia đình và xã hội.

[7] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra đã giải quyết xong.

[9] Về dân sự: Bị cáo Bùi Châu B khi cầm cố điện thoại cho ông Nguyễn Văn C và ông C không biết do bị cáo B trộm cắp mà có, tại phiên tòa bị cáo B đồng ý hoàn trả lại cho ông C số tiền 2.500.000 đồng, nên Hội đồng xét xử buộc bị cáo Bùi Châu B phải hoàn trả cho ông Nguyễn Văn C số tiền 2.500.000 (Hai triệu năm trăm nghìn) đồng là phù hợp.

[10] Về án phí: Bị cáo Bùi Châu B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự;

- Điều 135 và Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

- Điều 331 và Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Châu B phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Châu B 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bị cáo Bùi Châu B bị bắt thi hành án phạt tù.

Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng: Điều 357 Bộ luật dân sự.

Tuyên: Buộc bị cáo Bùi Châu B phải hoàn trả cho ông Nguyễn Văn C số tiền 2.500.000 (Hai triệu năm trăm nghìn) đồng.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

Về án phí:

Bị cáo Bùi Châu B phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Bùi Châu B có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (29/11/2022). Riêng bị hại Bùi Văn T và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn C có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự đã sửa đổi, bổ sung.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội trộm cắp tài sản số 102/2022/HS-ST

Số hiệu:102/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã La Gi - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/11/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về