Bản án về tội trộm cắp tài sản số 102/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 102/2021/HS-ST NGÀY 15/07/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 15 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 116/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 6 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 122/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 7 năm 2021 đối với:

Bị cáo Doãn Thế H, sinh năm 1998.

HKTT: Thôn YL, xã BA, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ học vấn: 12/12. Quốc tịch: Việt Nam. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Không. Họ tên bố: Doãn Thế D, sinh năm 1976. Họ tên mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1977. Gia đình có 3 chị em, bị cáo là con thứ hai. Vợ con chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại bản án số 85/2017/HSST ngày 24/4/2017 của Tòa án nhân dân huyện Quế Võ xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999. Ngày 08/7/2017 bị cáo chấp hành xong toàn bộ bản án.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/4/2021 đến nay, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh (Bị cáo có mặt).

Bị hại: Chị Nguyễn Thị T, sinh ngày 05/4/2003. (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn YL, xã BA, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Nguyễn Thị V, sinh năm 1986. (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn GL, xã PL, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 18/4/2021 chị Nguyễn Thị T, sinh năm 2003 có HKTT tại thôn Yên Lâm, xã Bằng An, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ trình báo về việc buổi sáng ngày 16/4/2021 chị phát hiện bị kẻ gian đột nhập vào nhà trộm cắp và lấy đi của chị 01 chiếc điện thoại di động Iphone 8 Plus màu đen đã qua sử dụng.

Ngày 19/4/2021 Doãn Thế H, sinh năm 1998 có HKTT ở thôn Yên Lâm, xã Bằng An, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh đến Công an huyện Quế Võ đầu thú và khai nhận hành vi trộm cắp của mình như sau: Do không có tiền tiêu xài nên H đã nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản. Khoảng 02 giờ ngày 16/4/2021, H đi bộ ra cổng thì thấy nhà chị Thoa là hàng xóm nhà H đã tắt điện, quan sát xung quanh không thấy ai ở ngoài đường, H trèo qua tường rào đi vào trong vườn nhà chị Thoa. H đi bộ về phía cửa sổ phòng ngủ của chị T nghe trong phòng không có tiếng động nên biết chị Thoa đã ngủ. H dùng tay phải đẩy cửa sổ về phía bên phải thì nhìn thấy tại đầu giường ngay sát cửa sổ trong phòng có một chiếc điện thoại Iphone 8 Plus màu đen đang cắm với một dây sạc điện thoại màu trắng. H thò tay qua cửa sổ vào trong cầm điện thoại rồi rút dây sạc ra khỏi điện thoại và đút điện thoại vừa lấy vào túi quần của H rồi đóng cửa sổ lại. H trèo tường qua lối đã vào để về nhà. Khi về đến nhà, H tháo sim trong điện thoại vứt đi và tắt nguồn điện thoại rồi đi ngủ. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày H cầm điện thoại trộm cắp được đến quán mua bán điện thoại của chị Nguyễn Thị Vui, sinh năm 1986 ở thôn Giang Liễu, xã Phương Liễu, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh bán được số tiền 2.000.000 đồng. Ngày 19/4/2021 chị Vui đã đem giao nộp cho Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Quế Võ chiếc điện thoại mà chị đã mua của H.

Ngày 18/4/2021 Cơ quan CSĐT Công an huyện Quế Võ đã trưng cầu Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện Quế Võ đối với chiếc điện thoại mà bị Thoa bị trộm cắp. Tại bản kết luận định giá tài sản số 17/KL- HĐĐGTS ngày 19/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện Quế Võ kết luận “Một chiếc điện thoại di động Iphone 8 Plus, màu đen, dung lượng 64GB tại thời điểm định giá tháng 4/2021 là 4.500.000 đồng” Với nội dung trên, bản Cáo trạng số 83/CT-VKSQV ngày 14/6/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ đã truy tố Doãn Thế H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ Luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ đã truy tố và thừa nhận bản Cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội.

Trong phần tranh tụng, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ thực hành quyền công tố tại phiên toà trình bày luận tội. Sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Doãn Thế H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ Luật hình sự, xử phạt Doãn Thế H từ 08 đến 12 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung phạt tiền cho bị cáo.

Xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Do bị hại đã nhận lại tài sản bị trộm cắp và không có ý kiến gì nên không xem xét giải quyết. Đối với số tiền mua điện thoại của chị Vui, chị Vui cũng không có yêu cầu H phải trả lại nên cũng không xem xét giải quyết.

Bị cáo H nhận tội và không có ý kiến tranh luận với vị đại diện Viện kiểm sát. Trong phần nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết của vụ án để cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Lời khai nhận tội của bị cáo Doãn Thế H tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với thời gian, địa điểm, tang vật thu được, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án có căn cứ để xác định: Khoảng 02 giờ ngày 16/4/2021, tại nhà của chị Nguyễn Thị Thoa ở thôn Yên Lâm, xã Bằng An, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, Doãn Thế H đã lợi dụng đêm tối, lợi dụng lúc chị Thoa đang ngủ không quản lý được tài sản để có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động Iphone 8 Plus màu đen đã qua sử dụng của chị Thoa trị giá 4.500.000 đồng mang đi bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Do vậy hành vi của bị cáo H đã phạm vào tội trộm cắp tài sản được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ Luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh truy tố bị cáo H về tội trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ Luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[2]. Xét tính chất, mức độ phạm tội, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo H là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo đã gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây hoang mang trong dư luận quần chúng nhân dân. Do vậy hành vi của bị cáo pH được xử lý nghiêm để răn đe và phòng ngừa chung. Bị cáo H đã lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu, lợi dụng đêm tối để trộm cắp tài sản. Mặc dù tài sản bị cáo trộm cắp có giá trị không lớn nhưng bị cáo đã 01 lần bị Tòa án xét xử và kết án về tội trộm cắp tài sản, nay bị cáo vẫn không lấy đó làm bài học kinh nghiệm mà vẫn chứng nào tật ấy, vẫn thực hiện hành vi trộm cắp chứng tỏ bị cáo ý thức chấp hành pháp luật kém. Do vậy hành vi của bị cáo phải được xử lý nghiêm và phải có hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo để răn đe và phòng ngừa chung.

Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bản án số 85/2017/HSST ngày 24/4/2017 của Tòa án nhân dân huyện Quế Võ xử phạt bị cáo 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 BLHS năm 1999. Ngày 08/7/2017 bị cáo chấp hành xong toàn bộ bản án nên đã được xóa án tích, bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS. Ngoài ra bị cáo cũng không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào khác. Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ Luật hình sự. Sau khi phạm tội bị cáo đã đến cơ quan điều tra đầu thú khai nhận hành vi phạm tội. Tài sản bị cáo trộm cắp đã được thu hồi trả lại bị hại và người bị hại có đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo cũng có ông nội là Doãn Thế Th, bà nội là Nguyễn Thị T là những người đã được Nhà nước khen thưởng Huân huy chương nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ Luật hình sự. Đây là những tình tiết để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Xem xét toàn bộ các tình tiết của vụ án thì thấy: Bị cáo H tuy có nhiều tình tiết giảm nhẹ, khi phạm tội tuổi đời cũng còn trẻ nên nhận thức về pháp luật hạn chế nhưng bị cáo là người lười lao động, thích ăn chơi đua đòi và có nhân thân xấu đã bị kết án về hành vi trộm cắp tài sản. Tuy hành vi phạm tội bị xét xử lần này của bị cáo ít nghiêm trọng nhưng để giáo dục và cải tạo bị cáo cũng cần có hình phạt nghiêm khắc, phạt cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện sau này. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên Hội đồng xét xử xét cho bị cáo được hưởng mức thấp nhất tương xứng với các tình tiết của vụ án.

[3]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có công việc làm, không có thu nhập ổn định nên miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[4]. Về trách nhiệm dân sự: Tài sản trộm cắp là chiếc điện thoại di động Iphone 8 Plus màu đen đã qua sử dụng đã được thu hồi và trả lại cho chị Thoa. Chị T đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết. Đối với 01 sim điện thoại của chị Thoa mà H đã vứt bỏ, chị Thoa cũng không có yêu cầu gì nên cũng không xem xét giải quyết.

[5]. Liên quan đến vụ án có số tiền 2.000.000 đồng mà chị Nguyễn Thị Vui bỏ ra để mua chiếc điện thoại của H, chị Vui cũng không yêu cầu H phải trả lại số tiền này nên cũng không xem xét giải quyết trong vụ án. Đối với chị Vui khi mua điện thoại của H không cũng không biết là tài sản trộm cắp, tài sản chị Vui mua cũng không phải đối tượng hàng hóa pH đăng ký chuyển quyền sở hữu nên Cơ quan điều tra không xem xét xử lý là phù hợp.

[6]. Về án phí: Bị cáo H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Doãn Thế H phạm tội “ Trộm cắp tài sản.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ Luật hình sự. Điều 136, Điều 329 Bộ Luật tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, tuyên xử:

Xử phạt Doãn Thế H 08 (Tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/4/2021. Quyết định tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 15/7/2021 để đảm bảo thi hành án.

Về trách nhiệm dân sự: Không xem xét giải quyết do bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu.

Về án phí: Bị cáo H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 102/2021/HS-ST

Số hiệu:102/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quế Võ - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về