Bản án về tội trộm cắp tài sản số 10/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HOÀNG MAI, TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 10/2022/HS-ST NGÀY 28/02/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 28 tháng 02 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân thị xã Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 02/2022/TLST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2022/QĐXXST-HS ngày 17/02/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Hội H, tên gọi khác: Không; sinh ngày 04 tháng 6 năm 1995, tại thị xã H, tỉnh Nghệ An; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn T, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Đánh cá; trình độ văn hoá: Lớp 07/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Hội H, sinh năm 1969 và bà Vũ Thị N, sinh năm 1973; Vợ: Trương Thị Huyền, sinh năm: 1995; Con: Có 03 con lớn sinh năm 2015 nhỏ sinh năm 2019;

Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 10/11/2021 đến ngày 19/11/2021 thì được tại ngoại cho đến nay (có mặt).

- Người bị hại:

+ Anh Lê Bá T, sinh năm: 1982 (vắng mặt) Trú tại: Thôn T, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An

- Người có quyền lợi – nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Nguyễn Văn H, sinh năm: 1999 (vắng mặt) Trú tại: Thôn T, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An

+ Ông Lê Hội H, sinh năm: 1969 (có mặt) Trú tại: Thôn T, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An

+ Chị Trương Thị T, sinh năm: 1994 (vắng mặt)

+ Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1993 (vắng mặt) Đều trú tại: Khối H, phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An.

+ Anh Nguyễn Văn T, sinh năm: 1977 (vắng mặt) Trú tại: Thôn T, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án tóm tắt như sau:

Vào khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 06 tháng 11 năm 2021, Lê Hội H biết tàu cá số hiệu NA-91678TS của anh Lê Bá T đang neo đậu tại cảng cá thuộc thôn T, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An không có ai trông coi nên H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. Lúc này, H gọi điện cho Nguyễn Văn H hỏi mượn xe mô tô nhãn hiệu Aiblade, biển kiểm soát 37L1-615.xx để đi đến tàu cá của anh T. Khi lên tàu cá, H đi vào buồng lái dùng một chiếc tua vít loại bốn cạnh đi đến tủ gỗ vặn ốc vít khóa chốt ngang, sau đó dùng tay khéo ra khỏi tủ gỗ, lấy trộm một máy dò cá hiệu Furuno và một bộ đàm bảo mật hiệu Sandermarine để trong tủ, cất giấu vào túi ni lông rồi điều khiển xe mô tô đến quán Iternet B (thuộc thôn T, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An) để trả xe cho anh H. Sau đó H mượn xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius, biển kiểm soát 37L1-502.xx của ông Lê Hội H mang tài sản vừa lấy được đến quán T gặp chị T để bán. Chị Tbảo H để máy lại để kiểm tra và hẹn hôm sau quay lại. H đồng ý và nói với chị T cho ứng trước 1.000.000đ rồi đi về. Đến khoảng 20 giờ 30 phút, ngày 07 tháng 11 năm 2021 H điều khiển xe mô tô hiệu Airblade, biển kiểm soát 37L1-615.xx chở theo anh H cùng đi đến quán T. Khi đến nơi anh H chờ ở ngoài còn H đi vào gặp anh Nguyễn Văn T để hỏi bán máy giò cá và bộ đàm bảo mật hôm trước để lại thì anh T nói chỉ mua máy giò cá với giá từ 1.000.000đ đến 1.500.000đ và cần đầu giò để thử máy, còn bộ đàm bảo mật thì không mua. H đồng ý để lại máy dò cá để anh T thử máy và cầm theo túi ni lông đựng bộ đàm bảo mật cùng anh H đi về. Khi đi đến cầu Đền Cờn thuộc phường Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An, H bảo H ném túi ni lông đựng bộ đàm xuống sông rồi cả hai cùng đi về. Cùng ngày anh Lê Bá T phát hiện trên tàu cá của mình bị mất một máy dò cá và một bộ đàm bảo mật nên đã đến cơ quan Công an trình báo. Ngày 10 tháng 11 năm 2021 H lên cơ quan Công an xã Q, thị xã H đầu thú và khai nhận hành vi trộm cắp của mình.

Vật chứng thu giữ được:

- 01 (một) máy dò cá nhãn hiệu FURUNO, mã máy FCV -688, màu đen có 01 màn hình LCD kích thước 5,7 inch và các phím bấm điều khiển đã quan sử dụng.

- 01 tua vít gồm phần tay cầm và phần trục, phần tay cầm dài 10cm làm bằng nhựa, hình bầu dục, màu xanh, phần trục dài 10cm, làm bằng thép, hình lục giác, một đầu gắn vào tay cầm, đầu còn lại có 04 cạnh.

- 01 khóa chốt cửa ngang gồm thân chốt, đế khóa và tay gạt làm bằng thép, phần thân chốt dài 10cm, hình trụ tròn, gắn với tay gạt và đế khóa phần tay và đế khóa kích thước (6x5)cm, đã bị biến dạng.

- 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Airblade, màu đen đỏ, số khung 6308FZ617815, số máy JF63E1141464, biển kiểm soát 37L-615.42 mang tên Nguyễn Văn Triều.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 31/KLĐG ngày 17/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự của UBND thị xã Hoàng Mai kết luận:

- 01 (một) máy dò cá nhãn hiệu FURONO, mã máy FCV-688, màu đen, có một màn hình LCD kích thước 5,7inch và các phím điều khiển đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm chiếm đoạt là 6.000.000đ (sáu triệu đồng) - 01(một) bộ đàm bảo mật nhãn hiệu Sandermarine, mã máy D808, màu ghi xám, do hãng Mecom sản xuất, có một màn hình LCD và các phím bấm điều khiển đã qua sử dụng có giá trị tại thời điểm chiếm đoạt là 2.500.000đ ( hai triệu năm trăm nghìn đồng) Tổng giá trị tài sản mà Lê Hội Hà chiếm đoạt là 8.500.000đ (tám triệu năm trăm nghìn đồng) Tại bản Cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 28 tháng 12 năm 2021, của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai đã truy tố Lê Hội H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173- Bộ luật Hình sự 2015.

Tại phiên toà, Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 36 của BLHS xử phạt bị cáo Lê Hội H từ 18 (mười tám) đến 24 (hai mươi bốn) tháng cải tạo không giam giữ, khấu trừ thu nhập của bị cáo mỗi tháng từ 500.000đ đến 700.000đ.

Hình phạt bổ sung: Xét bị cáo làm nghề đánh cá, thu nhập thấp, không ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Lê Bá T và người có quyền lợi – nghĩa vụ liên quan chị Trương Thị T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên đề nghị hội đồng xét xử không xem xét.

Về vật chứng vụ án: Cơ quan CSĐT Công an thị xã Hoàng Mai đã xử lý trả lại cho chủ sở hữu đúng quy định của pháp luật nên đề nghị Hội đồng xét xử miễn xét.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí HSST theo luật định.

Bị cáo nhất trí về tội danh, mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị, bị cáo không tranh luận gì, chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bị hại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, lời khai của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong quá trình điều tra cũng như vật chứng thu giữ được. Lời khai nhận tội của bị cáo còn phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án được đưa ra xem xét tại phiên tòa. Từ đó đã xác định được vào khoảng 19 giờ 30 phút, ngày 06/11/2021 tại tàu cá số hiệu NA- 91678TS của anh Lê Bá T đang neo đậu tại khu vực cảng cá thuộc thôn T, xã Q, thị xã H, tỉnh Nghệ An. Lê Hội H đã lợi dụng lúc không có người trông coi, lén lút chiếm đoạt 01 máy dò cá hiệu Furuno và một bộ đàm bảo mật hiệu Sandermarine có tổng giá trị là 8.500.000đ (tám triệu năm trăm nghìn đồng) nên hành vi của bị cáo Lê Hội H đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 173- BLHS, như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Hoàng Mai đã truy tố là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Vụ án thuộc loại ít nghiêm trọng nhưng hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, mà còn gây tâm lý hoang mang cho quần chúng nhân dân trong việc quản lý tài sản, gây bất bình trong xã hội, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực pháp luật hình sự, ý thức được tài sản của người khác là bất khả xâm phạm nhưng với bản chất lười lao động, ham chơi nhưng lại muốn có tiền tiêu xài nên vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy cần có đường lối xử phạt nghiêm minh tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện.

[3] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện đầu thú, bị cáo được người bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51- Bộ luật hình sự nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ có nơi thường trú rõ ràng nên chưa cần áp dụng hình phạt tù mà áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ và khấu trừ một phần thu nhập đối với bị cáo theo quy định tại Điều 36 – BLHS như đề nghị của đại diện viện kiểm sát cũng đủ nghiêm.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173- BLHS thì bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo làm nghề đánh cá, thu nhập thấp, không ổn định. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại anh Lê Bá T đã nhận lại tài sản là máy dò cá nhãn hiệu FURONO còn bộ đàm bảo mật nhãn hiệu Sandermarine không truy tìm được nhưng anh T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét. Người có quyền lợi – nghĩa vụ liên quan chị Trương Thị T đã được bị cáo trả lại số tiền 1.000.000đ nên chị T cũng không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Vật chứng vụ án: Đối với 01 bộ đàm bảo mật nhãn hiệu Sandermarine, mã máy D808 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Hoàng Mai đã truy tìm nhưng không truy tìm được nên không có cơ sở để xem xét. Còn các vật chứng khác Cơ quan cảnh sát điều tra đã xử lý trả lại cho chủ sở hữu đúng quy định của pháp luật nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[7] Đối với anh Nguyễn Văn T, chị Trương Thị T là người đã mua máy dò cá của bị cáo nhưng anh T, chị T không biết được tài sản đó do bị cáo phạm tội mà có nên anh T, chị T không phạm tội.

Nguyễn Văn H là người cho bị cáo mượn xe, cùng với bị cáo đi tiêu thụ tài sản và giúp bị cáo vứt bộ đàm bảo mật xuống sông nhưng anh H không biết tài sản đó do bị cáo phạm tội mà có nên anh H không phạm tội.

Ông Lê Hội H là người cho bị cáo mượn xe để bị cáo đi tiêu thụ tài sản nhưng ông H không biết được tài sản trên do bị cáo phạm tội mà có nên ông H không phạm tội.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí theo luật định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1; khoản 2 Điều 51; Điều 36 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Hội H 18 (mười tám) tháng cải tạo không giam giữ về tội “Trộm cắp tài sản” khấu trừ thu nhập bị cáo mỗi tháng 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) trong thời gian cải tạo không giam giữ. Trừ cho bị cáo thời gian tạm giữ 09 ngày từ ngày 10/11/2021 đến ngày 19/11/2021, cứ 01 ngày tạm giữ bằng 03 ngày cải tạo không giam giữ.

Giao bị cáo cho UBND xã Q, thị xã H giám sát giáo dục bị cáo, gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian chấp hành án cải tạo không giam giữ.

Thời điểm bắt đầu tính thời gian cải tạo không giam giữ là ngày UBND xã Q được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án.

Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 - BLTTHS; các điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Buộc bị cáo Lê Hội H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án bị cáo, người có quyền lợi – nghĩa vụ liên quan ông Lê Hội H có mặt được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An. Người bị hại anh Lê Bá T và người có quyền lợi – nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Văn H, anh Nguyễn Văn T, chị Trương Thị T, anh Nguyễn Văn T vắng mặt, được quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

141
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 10/2022/HS-ST

Số hiệu:10/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoàng Mai - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về