Bản án về tội trộm cắp tài sản số 101/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 101/2022/HS-ST NGÀY 18/03/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 03 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 100/2022/TLST-HS ngày 02 tháng 03 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 104/2022/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 03 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn T Tên gọi khác: Không : Sinh năm: 1974. Nơi đăng ký HKTT: xóm 1, xã T, huyện Y, tỉnh T. Nơi tạm trú: tổ 4, khu phố 2A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Trình độ học vấn: lớp 5/12 ; Nghề nghiệp: Không. Họ tên cha: Phạm Văn K - Sinh năm 1943 (đã chết); Họ tên mẹ: Đinh Thị L - sinh năm 1945 (còn sống). Họ tên vợ : Ma Thị A (đã ly hôn). Từ năm 2008 đến nay sống chung như vợ chồng với bà Hà Thị Tuyết M. Bị cáo có 03 con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2012.

Tiền án:

- Ngày 26/4/2013 bị Tòa án nhân dân tỉnh P xử phạt 03 năm tù giam về tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

- Ngày 26/11/2018 bị Tòa án nhân dân thành phố B xử phạt 14 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tiền sự: không.

Bị khởi tố bị can ngày 30/11/2021 và được Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú.

Hiện bị cáo tại ngoại. Có mặt.

- Bị hại: Anh Lương Đức T, sinh năm 1988.

Địa chỉ: 114 khu phố B, phường L, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Văn T là người không có nghề nghiệp và đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”. Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 10/10/2021, T đang ở trong phòng trọ tại khu phố 2A, phường T, thành phố B thì bạn của T tên H (chưa rõ họ, địa chỉ) đến chơi. Tại đây, H thấy T đang sửa ghế sắt nên đã nói với T là H thấy tại 01 bãi đất trống ở tổ 17, khu phố 5, phường T có để một số ghế sắt không có người trông coi rồi H rủ T đi lấy mang về phòng trọ sử dụng thì T đồng ý. T điều khiển xe mô tô biển số 36Y1-3XXX chở H đến trước bãi đất trống nêu trên thì phát hiện có một số khung bàn và ghế sắt đặt sát vách tường quán “Bida 01” của anh Lương Đức T ngụ số 114, khu phố B, phường L, thành phố B làm chủ. Thấy vậy, T và H đã đi vào lấy ra 04 cái ghế nệm có khung bằng sắt rồi cùng nhau tháo bỏ phần nệm trên ghế để lấy các khung ghế. Lúc này, anh T cùng Lương Văn T, ngụ tại tổ 43, khu phố 4C, phường T, thành phố B đi đến quán “Bida 01” để sửa thiết bị điện thì phát hiện T và H đang lấy trộm ghế sắt nên anh T và anh T đã giữ T lại rồi trình báo Công an phường T, còn H bỏ chạy thoát. Ngày 30/11/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Phạm Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” .

Vật chứng của vụ án:

- 04 cái ghế nệm có khung bằng sắt, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B đã thu hồi và trả lại cho anh Lương Đức T.

- 01 xe mô tô biển số 36Y1-3XXX do Phạm Văn T mượn của bà Hà Thị Tuyết M (là người chung sống như vợ chồng với T), do chưa xác minh được chủ sở hữu nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B tiếp tục tạm giữ để xác minh, xử lý sau.

Tại bản kết luận định giá số 459/KL-HĐĐGTS ngày 03/11/2021 của Hội đồng định giá tài sản thành phố B kết luận: “04 cái ghế nệm có khung bằng sắt trị giá 154.000đ (Một trăm năm mươi bốn nghìn đồng)”.

Về dân sự: anh Lương Đức T đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường.

Bản cáo trạng số 122/CT-VKSBH ngày 23/02/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội “Trộm cắp tài sản”, quy định tại điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS; xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 14 tháng tù giam.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xét lời khai của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ, đủ cơ sở kết luận bị cáo Phạm Văn T đã có hành vi lén lút trộm cắp tài sản của anh Lương Đức T 04 cái ghế nệm có khung bằng sắt có tổng trị giá tài sản là 154.000đồng (một trăm năm mươi bốn nghìn đồng), Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B truy tố bị cáo về tội: “trộm cắp tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân, tài sản hợp pháp được pháp luật bảo hộ. Hành vi của bị cáo còn gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội tại địa phương. Cần có mức án đủ nghiêm nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung trong xã hội [4] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Bị cáo có hai tiền án chưa được xóa án tích, trong đó có một bản án về tội trộm cắp tài sản do đó có tình tiết tăng nặng là tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn, nên cũng xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

5 Về trách nhiệm dân sự: Anh Lương Đức T đã nhận lại tài sản nên không yêu cầu bồi thường, anh T không có yêu cầu gì khác nên không đặt ra xem xét.

[6] Vật chứng của vụ án: Không có, Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố B về tội danh, điều luật áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

[8] Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo vào trại chấp hành án.

2. Về án Phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội, buộc bị cáo Nguyễn Hoàng Tú phải chịu 200.000đ tiền án phí HSST.

Bị cáo Phạm Văn T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Lương Đức T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tống đạt hợp lệ bản án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

134
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 101/2022/HS-ST

Số hiệu:101/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về