Bản án về tội trộm cắp tài sản số 09/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 09/2024/HS-ST NGÀY 10/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N, xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 330/2023/TLST-HS ngày 11 tháng 10 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 346/2023/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

Nguyn Đình T, sinh ngày 07 tháng 5 năm 1987, tại: TP H; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Không có; chỗ ở: Tổ 12 V, phường N1, thành phố N, tỉnh H; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Đình D (đã chết) và bà Ngô Thị Thu T1, sinh năm 1964;

Tiền sự: Không; Tiền án:

- Bản án số 156/2011/HSST ngày 18/07/2011 của Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 10/12/2011, chấp hành xong án phí năm 2018.

- Bản án số 276/2012/HSST ngày 26/11/2012 của Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 13/03/2013, chấp hành xong án phí 2020.

- Bản án số 239/2013/HSST ngày 05/08/2013 của Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 26/01/2014, chấp hành xong án phí năm 2014.

- Bản án số 296/2014/HSST ngày 17/12/2014 của Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 26/08/2016, chấp hành xong án phí năm 2015.

- Bản án số 115/2018/HSST ngày 16/05/2018 của Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 30/01/2021, chấp hành xong án phí năm 2019.

Nhân thân:

Bản án số 106/2023/HSST ngày 19/04/2023, bị Tòa án nhân dân thành phố N xử phạt 06 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Bị cáo đang chấp hành án tại trại giam Xuân Phước theo bản án số 106/2023/HSST ngày 19/04/2023 của Tòa án nhân dân thành phố N (thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29/10/2022); có mặt tại phiên tòa.

* Bị hại:

- Chị Vũ Thị Hồng Ng, sinh năm 2002; hộ khẩu thương trú: Thôn V1, xã V2, thành phố T, tỉnh Thái Bình; chỗ ở hiện nay: Hẻm F1, xã V3, thành phố N, tỉnh H. Có mặt.

- Chị Trần Thúy V, sinh năm 2004; hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã L, thành phố C, tỉnh Cà Mau; chỗ ở: Phòng x1 ký túc xá K8 trường Đ, số 02 N, phường V4, thành phố N, tỉnh H. Vắng mặt và có đơn xin vắng mặt.

- Chị Phan Kim V-1, sinh năm 2004; hộ khẩu thường trú: Ấp M, xã T, huyện Đ, tỉnh Cà Mau; chỗ ở: Phòng x2 ký túc xá K8 trường Đ, số 02 N, phường V4, thành phố N, tỉnh H. Vắng mặt và có đơn xin vắng mặt.

- Chị Đỗ Như Y, sinh năm 2004; hộ khẩu thường trú: Khóm 2 phường T, thành phố C, tỉnh Cà Mau; chỗ ở: Phòng x1 ký túc xá K8 trường Đ, số 02 N, phường V4, thành phố N, tỉnh H. Vắng mặt và có đơn xin vắng mặt.

* Người làm chứng:

- Chị Võ Ngọc Trà M, sinh năm 2003; hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã S, huyện D, tỉnh H; chỗ ở: Phòng x3 ký túc xá K4 trường Đ, số 02 Nguyễn Đình Chiểu, phường Vĩnh Thọ, thành phố N, tỉnh H. Vắng mặt.

- Chị Trần Đắc U, sinh năm 2003; hộ khẩu thường trú: 132/2 khóm X phường 1, thành phố T, tỉnh Trà Vinh; chỗ ở: Phòng x4 ký túc xá K4 trường Đ, số 02 N, phường V4, thành phố N, tỉnh H. Vắng mặt - Bà Phan Thị Th, sinh năm 1976; trú tại: Tổ 33 H, phường V, thành phố N, tỉnh H. Vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Đình T sau khi chấp hành hình phạt tù về tội trộm cắp tài sản, chưa được xóa án tích nhưng lại tiếp tục thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản tại ký túc xá Trường Đ, địa chỉ: số 02 N, phường V4, thành phố N. Cụ thể:

Vụ 1: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 11/10/2022, Nguyễn Đình T đi bộ phát hiện tại khu vực trước cổng Trường Đ không có bảo vệ trông coi nên T lẻn vào trong trường. Khi đến trước phòng x3, khu K4, T thấy cửa phòng không khóa, trên bàn học trong phòng có để 01 máy tính xách tay hiệu Dell Vostro màu đen và 01 ví tiền của chị Vũ Thị Hồng Ng thì T lên vào lấy trộm chiếc máy tính xách tay và ví tiền trên rồi bỏ đi ra ngoài. Sau đó, T kiểm tra thấy bên trong ví không có tiền nên T vứt ví lại ngoài đường, còn chiếc máy tính xách tay hiệu Dell Vostro, T mang đi bán cho một người đi đường (chưa rõ nhân thân lai lịch) tại khu vực chợ P, thành phố N được số tiền 2.000.000 đồng rồi đem tiêu xài hết.

Vụ 2: Khoảng 14 giờ ngày 12/10/2022, Nguyễn Đình T cầm theo 01 cây sắt tiếp tục vào ký túc xá trường Đ, để trộm cắp tài sản. Thấy phòng x1, khu K8 khóa ngoài, quan sát xung quanh không có người, T tay hiệu Lenovo màu xám và 01 balo của chị Trần Thúy V, 01 máy tính xách tay hiệu Asus Vivobook màu xám bạc của chị Phan Kim V-1 và 01 tính xách tay hiệu HP Pavilion màu xanh đen của chị Đỗ Như Y, bỏ vào trong ba lô mang ra ngoài. Sau đó, T mang 03 chiếc máy tính xách tay vừa lấy trộm trên đến tại khu vực chợ P, thành phố N bán cho một người đi đường (chưa rõ nhân thân lai lịch) được số tiền 6.500.000 đồng rồi đem tiêu xài cá nhân hết.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 391/KL-HDĐGTS ngày 08/12/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự - UBND thành phố N kết luận: 01 máy tính xách tay hiệu Dell Vostro V3405 trị giá 12.491.000đ (mười hai triệu bốn trăm chín mươi mốt nghìn đồng) Tại bản kết luận định giá tài sản số 60/KL-HDĐGTS ngày 15/02/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự - UBND thành phố N kết luận:

01 máy tính xách tay hiệu Lenovo IdeaPad 3 màu xám trị giá 8.320.200đ (tám triệu ba trăm hai mươi nghìn hai trăm đồng) Tại bản kết luận định giá tài sản số 61/KL-HDĐGTS ngày 15/02/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự - UBND thành phố N kết luận:

01 máy tính xách tay hiệu Asus Vivobook màu xám bạc trị giá 11.956.000đ (mười một triệu chín trăm năm mươi sáu nghìn đồng) Tại bản kết luận định giá tài sản số 62/KL-HDĐGTS ngày 22/02/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự - UBND thành phố N kết luận:

01 máy tính xách tay hiệu HP Pavilion màu xanh đen trị giá 11.436.300đ (mười một triệu bốn trăm ba mươi sáu nghìn ba trăm đồng) Đối với hành vi trộm 01 ví tiền và 01 balo: Ngày 29/9/2023, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - UBND thành phố N có công văn số 406/HDĐG từ chối định giá tài sản do yêu cầu định giá không đủ thông tin về đặc điểm, thông số kỹ thuật của sản phẩm, không có hóa đơn chứng từ kèm theo.

Tổng giá trị tài sản Nguyễn Đình T trộm cắp được là 44.203.500đ (bốn mươi bốn triệu hai trăm linh ba nghìn năm trăm đồng).

Tại bản Cáo trạng số 267/CT-VKSNT ngày 04 tháng 10 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố bị cáo Nguyễn Đình T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm b, g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng b, g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt tại bản án 106/2023/HSST ngày 19/04/2023 của Tòa án nhân dân thành phố N theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo bồi thường cho chị Vũ Thị Hồng Ng số tiền 12.491.000đ; bồi thường cho chị Trần Thúy V số tiền 5.000.000đ; bồi thường cho chị Phan Kim V-1 số tiền 9.000.000đ và bồi thường cho chị Đỗ Như Y số tiền 5.000.000đ.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định.

- Bị cáo Nguyễn Đình T khai nhận đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản như nội dung bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tại phiên tòa, bị hại Trần Thúy V, Phan Kim V-1, Đỗ Như Y, những người làm chứng vắng mặt. Xét thấy sự vắng mặt của những người này không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án. Căn cứ vào Điều 292, 293 Bộ luật Tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đình T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng cùng các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đủ cơ sở kết luận:

Nguyễn Đình T không có nghề nghiệp, đã 05 lần bị kết án về tội trộm cắp tài sản, chưa xóa án tích nhưng lại tiếp tục thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản để sinh sống, cụ thể:

Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 11/10/2022, tại phòng x3, khu K4, ký túc xá Trường Đ, địa chỉ: số 02 N, phường V4, thành phố N, Nguyễn Đình T lén lút lấy trộm 01 máy tính xách tay hiệu Dell Vostro V3405 của chị Vũ Thị Hồng Ng trị giá 12.491.000đ.

Khoảng 14 giờ ngày 12/10/2022, tại phòng x1, khu K8, ký túc xá Trường Đ, địa chỉ: số 02 N, phường V4, thành phố N, Nguyễn Đình T đã lén lút trộm cắp 01 máy tính xách tay hiệu Lenovo IdeaPad 3 màu xám của chị Trần Thúy V trị giá 8.320.200đ; 01 máy tính xách tay hiệu Asus Vivobook màu xám bạc của chị Phan Kim V-1 trị giá 11.956.000đ; 01 máy tính xách tay hiệu HP Pavilion màu xanh đen của chị Đỗ Như Y trị giá 11.436.300đ.

Tổng giá trị tài sản Nguyễn Đình T trộm cắp được là 44.203.500đ (bốn mươi bốn triệu hai trăm linh ba nghìn năm trăm đồng).

Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo b, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N đã truy tố đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy rằng:

Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của bị hại, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự ở địa phương. Bị cáo có nhân thân xấu, nhận thức được việc trộm cắp là vi phạm pháp luật nhưng vẫn nhiều lần cố ý thực hiện hành vi. Vì vậy cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm khắc, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội 02 lần nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo.

Ngoài ra, bị cáo đang chấp hành hình phạt tù của bản án 106/2023/HSST ngày 19/04/2023 của Tòa án nhân dân thành phố N nên cần tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt tại bản án 106/2023/HSST ngày 19/04/2023 của Tòa án nhân dân thành phố N, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án theo quy định tại Điều 56 Bộ luật Hình sự. [5] Về trách nhiệm dân sự Theo các kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thì máy tính xách tay hiệu Dell Vostro V3405 của chị Vũ Thị Hồng Ng trị giá 12.491.000đ; máy tính xách tay hiệu Lenovo IdeaPad 3 màu xám của chị Trần Thúy V trị giá 8.320.200đ; máy tính xách tay hiệu Asus Vivobook màu xám bạc của chị Phan Kim V-1 trị giá 11.956.000đ; máy tính xách tay hiệu HP Pavilion màu xanh đen của chị Đỗ Như Y trị giá 11.436.300đ.

Tại phiên tòa, bị hại Vũ Thị Hồng Ng yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 12.491.000đ là phù hợp nên chấp nhận.

Tại đơn xin xét xử vắng mặt và yêu cầu bồi thường của bị hại Trần Thúy V, Phan Kim V-1, Đỗ Như Y thể hiện: Chị Trần Thúy V chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 5.000.000 đồng; chị Phan Kim V-1 chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 9.000.000 đồng; chị Đỗ Như Y chỉ yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền 5.000.000 đồng. Xét đây là sự tự nguyện của bị hại, phù hợp quy định của pháp luật và có lợi cho bị cáo nên chấp nhận.

Do đó, buộc bị cáo phải bồi thường cho chị Vũ Thị Hồng Ng 12.491.000đ; bồi thường cho chị Trần Thúy V 5.000.000đ; bồi thường cho chị Phan Kim V-1 9.000.000đ và bồi thường cho chị Đỗ Như Y 5.000.000đ.

[6] Đối với các đối tượng đã mua các máy tính từ bị cáo Nguyễn Đình T hiện chưa xác định được, kiến nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố N tiếp tục xác minh làm rõ, khi có đủ căn cứ thì xem xét xử lý sau.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ b, g khoản 2 Điều 173; điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 56 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình T 04 (bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Tổng hợp hình phạt 06 năm tù tại bản án số 106/2023/HSST ngày 19/04/2023 của Tòa án nhân dân thành phố N, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 10 (mười) năm tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 29 tháng 10 năm 2022.

2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật Dân sự;

Buộc bị cáo phải bồi thường cho chị Vũ Thị Hồng Ng 12.491.000đ (mười hai triệu bốn trăm chín mươi mốt nghìn đồng); bồi thường cho chị Trần Thúy V 5.000.000đ (năm triệu đồng); bồi thường cho chị Phan Kim V-1 9.000.000đ (chín triệu đồng) và bồi thường cho chị Đỗ Như Y 5.000.000đ (năm triệu đồng).

Quy định chung: Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong khoản tiền trên, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 468 của Bộ luật Dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

Bị cáo Nguyễn Đình T phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 1.574.550đ (một triệu năm trăm bảy mươi bốn nghìn năm trăm năm mươi đồng) án phí dân sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại Vũ Thị Hồng Ng có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại Trần Thúy V, Phan Kim V-1, Đỗ Như Y có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

7
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 09/2024/HS-ST

Số hiệu:09/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về