Bản án về tội trộm cắp tài sản số 09/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐĂK HÀ, TỈNH KON TUM

BẢN ÁN 09/2022/HS-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 4 năm 2022, tại Hội trường xét xử Toà án nhân dân huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum mở phiên toà công khai xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 04/2022/HSST, ngày 11/3/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 05/2022/QĐXXST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 01/2022/HSST- QĐ ngày 08 tháng 4 năm 2022 đối với:

- Các bị cáo:

1. Bị cáo thứ nhất: Võ Ngọc L (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1997, tại tỉnh Kon Tum. Nơi ĐKHKTT và ch ở hiện nay: Tổ dân phố 6 thị trấn Đ, huyện H, tỉnh T; Nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn) 9/12; Dân tộc: Kinh giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Ngọc S, sinh năm 1972 và bà Đoàn Thị L, sinh năm 1974; Bị cáo chưa có vợ; Tiền sự: Có một tiền sự, ngày 19/6/2017 bị cáo bị Công an huyện Đăk Hà ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0000019 về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy, bằng hình thức phạt tiền, mức phạt: 750.000 đồng (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng). Bị cáo Võ Ngọc L chưa chấp hành quyết định xử phạt;

Tiền án: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/12/2021 cho đến nay đưa ra xét xử. Có mặt.

2. Bị cáo thứ hai: Thái Văn Th (Tên gọi khác: Không), sinh năm 2001, tại tỉnh Kon Tum. Nơi ĐKHKTT và ch ở hiện nay: Tổ dân phố 6 thị trấn Đ, huyện H, tỉnh T; Nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn) 9/12;

Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Thái Văn Q, sinh năm 1978 và Nguyễn Thị Th, sinh năm 1982; Bị cáo chưa có vợ; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/12/2021 cho đến nay đưa ra xét xử. Có mặt.

3. Bị cáo thứ ba: Nguyễn Tấn Th (Tên gọi khác: Không), sinh năm 1996, tại tỉnh Ninh Thuận. Nơi ĐKHKTT: Tổ dân phố 2B thị trấn Đ, huyện H, tỉnh T; Ch ở hiện nay: Thôn 1 xã L, huyện H, tỉnh T; Nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa (học vấn) 8/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Tấn L, sinh năm 1966 và Trần Thị H, sinh năm 1966; Bị cáo có vợ tên là Lê Thị Thảo Tr, sinh năm 2001 và có một con tên Nguyễn Ngọc Trúc Q, sinh ngày 08/6/2020; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 28/12/2021, đến ngày 26/01/2022 được thay thế biện pháp tạm giam bằng biện pháp bảo lĩnh “Cấm đi khỏi nơi cư trú”, đến nay đưa ra xét xử. Có mặt.

- Bị hại: Bà Hoàng Thị L, sinh năm 1952. Địa chỉ: Thôn ĐB, xã Ng, huyện H, tỉnh T. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1982. Địa chỉ: Tổ dân phố 6, thị trấn Đ, huyện H, tỉnh T. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ 00 ngày 26/12/2021, Võ Ngọc L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS, mang biển kiểm soát 82B1-735.27, khi đi mang theo một dao Thái Lan, một tuốc nơ vít, một đèn pin đội đầu và một kìm cắt sắt chở theo phía sau là Thái Văn Th đi dạo tại khu vực Quốc lộ 14 thuộc huyện Đăk Hà. Đang đi thì L rủ Thái Văn Th “Anh em mình đi kiếm tiền tiêu đi”, khi nghe vậy thì Thái Văn Th hiểu L rủ Thái Văn Th đi trộm cắp tài sản về bán lấy tiền tiêu xài nên đã đồng ý. L điều khiển xe mô tô chở Thái Văn Th về hướng Cống ba l (thuộc thị trấn Đ, huyện H) rồi chạy theo hướng đường Lê Hồng Phong vào khu vực xã Ng, huyện H. Khi đi đến nhà bà Hoàng Thị L ở Thôn Đăk Bình, xã Ng, huyện H, L phát hiện nhà bà L có các cánh cửa bằng g , L dừng xe mô tô trong vườn trồng chuối sát nhà bà L, L nói Thái Văn Th đứng ngoài cảnh giới còn L trèo qua hàng rào của ngôi nhà vào bên trong nhà bà L. Sau khi vào trong sân nhà bà L, L dùng đèn pin đội đầu soi sáng rồi đi đến khu vực cửa sổ hai cánh bên trái ngôi nhà, L sử dụng dao Thái Lan cạo một góc của cánh cửa sổ thì biết được cánh cửa làm từ g Trắc. L dùng tay tháo từng cánh cửa g đưa qua hàng rào lưới B40 cho Thái Văn Th ở bên ngoài hàng rào đỡ và mang về nơi dựng xe mô tô xếp lại một ch . Sau đó, L đi đến cửa sổ bốn cánh phía trước ngôi nhà tiếp tục tháo từng cánh cửa g rồi đưa ra ngoài qua hàng rào cho Thái Văn Th. Sau khi chuyển xong bốn cánh cửa g , L trèo ra ngoài, L và Thái Văn Th chất sáu cánh cửa g lên xe mô tô. L điều khiển xe mô tô, Thái Văn Th ngồi sau ôm sáu cánh cửa g đi về hướng xã L, huyện H. Trên đường Quốc lộ 14 thuộc xã L thì một dao Thái Lan và một tuốc nơ vít bị rơi. Khoảng 04 giờ 00 ngày 27/12/2021, khi đến cầu Ngô Trang thuộc xã L, huyện H, tỉnh T Thái Văn Th xuống xe còn L chở sáu cánh cửa g đến tiệm Thành máy cưa của Nguyễn Tấn Th cất giấu và nhờ Nguyễn Tấn Th tìm nơi tiêu thụ số cửa g trên và hứa hẹn sẽ cho Nguyễn Tấn Th tiền sau khi bán được sáu cánh cửa g , Nguyễn Tấn Th đồng ý. Sau đó, L điều khiển xe mô tô đón và chở Thái Văn Th về phòng trọ thuộc Tổ dân phố 4a, thị trấn Đ, huyện H để ngủ. Đến trưa ngày 27/12/2021, Thái Văn Th điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 82B1-735.27 đến nhà Nguyễn Tấn Th chơi rồi đi mua ba bao xác rắn màu đỏ về để bỏ sáu cánh cửa trộm cắp được vào bên trong, sau đó Thái Văn Th điều khiển xe đi về, khoảng 16 giờ 30 cùng ngày thì Thái Văn Th, Võ Ngọc L và Phạm Việt H đi đến nhà Nguyễn Tấn Th chơi. Đến khoảng 21 giờ 00 cùng ngày, Công an xã Đăk La phối hợp với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk Hà kiểm tra, phát hiện Nguyễn Tấn Th cất giữ sáu cánh cửa g nhưng không xuất trình được giấy tờ chứng minh nguồn gốc, xuất xứ nên đã lập biên bản và đưa các đối tượng có liên quan về trụ sở để làm việc.

Quá trình điều tra xác định: Trong quá trình Võ Ngọc L và Thái Văn Th trộm cắp tài sản thì Nguyễn Tấn Th không biết và không có hứa hẹn trước. Tuy nhiên tại thời điểm Võ Ngọc L mang tài sản trộm cắp đến nhà và nhờ Nguyễn Tấn Th tìm nơi tiêu thụ thì Nguyễn Tấn Th biết rõ số tài sản trên do L và Thái Văn Th trộm cắp được mà có nhưng vẫn chứa chấp và tìm kiếm nơi tiêu thụ tài sản.

Ngày 27/12/2021, bà Hoàng Thị L làm đơn trình báo gửi Công an huyện Đăk Hà.

Tại cơ quan điều tra, các đối tượng Võ Ngọc L, Thái Văn Th, Nguyễn Tấn Th đã khai nhận các hành vi phạm tội của mình. Lời khai của các đối tượng phù hợp với lời khai của người bị hại và các chứng cứ thu được.

Tại Kết luận định giá tài sản số: 55/KL-HĐĐGTS, ngày 31/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đăk Hà kết luận giá trị tài sản như sau: 06 (sáu) cánh cửa g , chủng loại g Trắc, thuộc nhóm 2A. Tài sản thành tiền là: 10.637.760 đồng (Mười triệu sáu trăm ba mươi bảy ngàn bảy trăm sáu mươi đồng).

Vật chứng thu giữ:

- Bốn cánh cửa g , có kích thước (1,2 x 0,35 x 0,03) m, trên bốn cánh cửa có gắn mười hai bản lề bằng kim loại đã cũ có cùng đặc điểm, cánh cửa đã qua sử dụng.

- Hai cánh cửa g , có kích thước (1,2 x 0,4 x 0,03) m, trên hai cánh cửa có gắn bốn bản lề bằng kim loại đã cũ có cùng đặc điểm, cánh cửa đã qua sử dụng.

- Một đèn pin đội đầu, màu đen, đèn pin đã qua sử dụng.

- Một kìm cắt sắt dài 18cm, có cán cầm bằng nhựa màu đỏ dài 12cm, kìm đã qua sử dụng.

- Ba bao xác rắn màu đỏ, trên thân bao có vết rách và có dòng chữ màu đen “NHƠN HÒA”, bao đã qua sử dụng.

- Một xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại SIRIUS, mang biển kiểm soát 82B1- 735.27 đã qua sử dụng.

Quá trình điều tra xác định: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, biển kiểm soát 82B1-735.27, màu sơn xám Đen, số máy: E3X9E603902, số khung: 3210KY255700, là tài sản của chị Nguyễn Thị Th. Năm 2019, chị Th mua chiếc xe mô tô trên với giá 24.500.000 đồng (Hai mươi bốn triệu năm trăm ngàn đồng) có chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số: 067318 ngày 26/04/2019 do Phòng Cảnh sát Giao thông - Công an tỉnh Kon Tum cấp. Ngày 09/3/2022, Viện KSND huyện Đăk Hà đã ra quyết định trả lại tài sản là chiếc xe nêu trên cho chị Th quản lý, sử dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Bà Hoàng Thị L yêu cầu được nhận lại 6 cánh cửa sổ bằng g trắc và không yêu cầu gì về bồi thường dân sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum đã truy tố các bị cáo Võ Ngọc L, Thái Văn Th về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự, bị cáo Nguyễn Tấn Th về tội: “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự tại Bản cáo trạng số: 05/CT-VKSĐH, ngày 10/3/2022.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Hà có ý kiến giữ nguyên cáo trạng truy tố và trình bày lời luận tội, phân tích hành vi phạm tội của các bị cáo, hậu quả do hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, nhân thân của các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Võ Ngọc L, Thái Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo Nguyễn Tấn Th phạm tội: “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Võ Ngọc L từ 09 đến 12 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Thái Văn Th từ 06 đến 09 tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Th từ 06 đến 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 2; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả lại cho bà Hoàng Thị L bốn cánh cửa g , có kích thước (1,2 x 0,35 x 0,03)m, trên bốn cánh cửa có gắn 12 (mười hai) bản lề bằng kim loại đã cũ có cùng đặc điểm; Hai cánh cửa g , có kích thước (1,2 x 0,4 x 0,03)m, trên hai cánh cửa có gắn 04 (bốn) bản lề bằng kim loại đã cũ có cùng đặc điểm, các cánh cửa đã qua sử dụng.

- Tịch thu tiêu hủy một đèn pin đội đầu, màu đen, đèn pin đã qua sử dụng; Một kìm cắt sắt dài 18cm, có cán cầm bằng nhựa màu đỏ dài 12cm, kìm đã qua sử dụng; Ba bao xác rắn màu đỏ, trên thân bao có vết rách và có dòng chữ màu đen “NHƠN HÒA”, bao đã qua sử dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Không có yêu cầu nên không đề cập để xem xét giải quyết.

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận thực hiện hành vi phạm tội của mình như cáo trạng truy tố và luận tội của Đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo không có ý kiến tranh luận gì.

Lời nói sau cùng của các bị cáo trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án: Các bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật, rất hối hận, mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk Hà và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Hà và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người tham gia tố tụng khác khẳng định khai báo tự nguyện, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi các bị cáo bị truy tố:

Do không có tiền tiêu xài nên vào khoảng 22 giờ ngày 26/12/2021, Võ Ngọc L, Thái Văn Th đã lợi dụng đêm khuya vắng đã đột nhập và lấy trộm 06 cánh cửa sổ bằng g trắc của gia đình bà Hoàng Thị L. Sau khi lấy trộm được tài sản L điều khiển xe mô tô chở Thái Văn Th ôm 06 cánh cửa sổ bằng g trắc vừa trộm cắp được đến Tiệm máy cưa của Nguyễn Tấn Th tại thôn 1, xã L, huyện H, tỉnh T để nhờ Nguyễn Tấn Th cất giấu và tìm nơi tiêu thụ. L có hứa hẹn sẽ cho Nguyễn Tấn Th tiền sau khi bán được 06 cánh cửa bằng g trắc nêu trên.

Đây là vụ án có tính chất đồng phạm giản đơn, ít nghiêm trọng, m i bị cáo đều tham gia với vai trò khác nhau. Bị cáo Võ Ngọc L là người khởi xướng, rủ rê, trực tiếp vào nhà bà L để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, bị cáo Thái Văn Th làm nhiệm vụ cảnh giới và giúp sức cho L di chuyển tài sản trộm cắp được ra bên ngoài để đưa đi cất giấu rồi tiêu thụ. Động cơ, mục đích trộm cắp tài sản của L và Thái Văn Th là để đem bán lấy tiền tiêu xài cá nhân. Còn đối với Nguyễn Tấn Th mặc dù không hứa hẹn nhưng biết đó là tài sản do L trộm cắp được mà có nhưng vẫn đồng ý chứa chấp, nhằm mục đích vụ lợi cá nhân, che giấu tài sản do người khác phạm tội mà có. Tổng giá trị tài sản mà Võ Ngọc L, Thái Văn Th đã lấy trộm và Nguyễn Tấn Th đã chứa chấp trị giá là 10.637.760 đồng (Mười triệu sáu trăm ba mươi bảy ngàn bảy trăm sáu mươi đồng).

Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Hành vi nêu trên của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự và tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội:

Các bị cáo Võ Ngọc L, Thái Văn Th lợi dụng đêm khuya vắng, chủ sở hữu buông lỏng cảnh giác trong việc trông coi, quản lý tài sản nên đã lén lút thực hiện hành vi trộm cắp 06 cánh cửa sổ bằng g trắc. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác và hành vi chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật công nhận và bảo vệ. Thể hiện ý thức coi thường pháp luật, đồng thời còn làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với l i cố ý trực tiếp. Do vậy, việc đưa các bị cáo ra xét xử và buộc các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự do hành vi phạm tội của các bị cáo đã gây ra là hoàn toàn đúng pháp luật nhằm để răn đe, giáo dục các bị cáo biết tuân thủ pháp luật và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo:

- Về tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản chiếm đoạt đã thu hồi và chưa gây thiệt hại, tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo, đó là những tình tiết quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

- Về nhân thân của các bị cáo: Bị cáo Nguyễn Tấn Th có nhân thân tốt thể hiện không có tiền án, tiền sự; bị cáo Võ Ngọc L có một tiền sự về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy vào năm 2017, đến nay chưa chấp hành quyết định xử phạt hành chính; bị cáo Thái Văn Th tuy không có tiền án, tiền sự nhưng ngày 26/01/2022 bị cáo bị Công an xã Đăk La, huyện Đăk Hà ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy, bằng hình thức phạt tiền, mức phạt: 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng), bà Nguyễn Thị Th đã nộp phạt thay cho Thái Văn Th, như vậy thể hiện ý thức của bị cáo chưa chấp nghiêm các quy định của pháp luật.

[5] Về quyết định hình phạt: Sau khi cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết xử phạt các bị cáo Võ Ngọc L, Thái Văn Th với mức án tù có thời hạn, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để giáo dục các bị cáo trở thành người công dân có ích cho gia đình, xã hội. Đối với bị cáo Nguyễn Tấn Th phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, qua xem xét tính chất, mức độ phạm tội cũng như nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo cải tạo tại địa phương cũng đủ điều kiện để bị cáo sửa chữa l i lầm, tự giác cải tạo trở thành công dân có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Đối với loại tội trộm cắp tài sản và chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có còn có thể bị xử phạt bổ sung bằng tiền, nhưng căn cứ vào lời khai tại phiên tòa và các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án thì các bị cáo đều làm nghề nông, không có tài sản riêng, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền cho các bị cáo.

[7] Về các vấn đề khác:

- Về xử lý vật chứng:

+ Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại xe SIRIUS, biển kiểm soát 82B1-735.27, màu sơn xám đen, số máy: E3X9E603902, số khung: 3210KY255700 được xác định là tài sản thuộc sở hữu của chị Nguyễn Thị Th, việc Thái Văn Th sử dụng chiếc xe này làm phương tiện trộm cắp tài sản thì chị Th hoàn toàn không biết. Cho nên ngày 09/3/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Hà đã ra quyết định trả lại tài sản cho chị Th để tiếp tục quản lý, sử dụng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

+ Bà Hoàng Thị L yêu cầu được nhận lại 06 cánh cửa sổ bằng g trắc và không yêu cầu gì thêm. Nguồn gốc của 06 cánh cửa sổ bằng g trắc được gia đình bà Hoàng Thị L sử dụng từ những cây g Trắc ở trong vườn và làm từ năm 1990, sử dụng hợp pháp từ đó cho đến nay. Xét yêu cầu của bà L là chính đáng, nên cần trả lại 06 cánh cửa sổ bằng g trắc cho bà Hoàng Thị L để tiếp tục quản lý, sử dụng là có căn cứ và phù hợp.

+ Đối với một đèn pin đội đầu, màu đen, đèn pin đã qua sử dụng; Một kìm cắt sắt dài 18cm, có cán cầm bằng nhựa màu đỏ dài 12cm, kìm đã qua sử dụng; Ba bao xác rắn màu đỏ, trên thân bao có vết rách và có dòng chữ màu đen “NHƠN HÒA”, bao đã qua sử dụng là công cụ phạm tội nên cần tịch thu và tiêu hủy.

+ Đối với một dao Thái Lan và một tuốc nơ vít là công cụ Võ Ngọc L sử dụng để trộm cắp tài sản, ngày 28/12/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk Hà tiến hành truy tìm nhưng không tìm thấy, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

- Về trách nhiệm dân sự: Bà Hoàng Thị L yêu cầu được nhận lại 06 cánh cửa sổ bằng g trắc và không yêu cầu gì thêm. Chị Nguyễn Thị Th đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường gì khác về dân sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử không đề cập xem xét giải quyết.

- Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc các bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

- Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, Bị hại, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[8] Xét ý kiến luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Hà tại phiên tòa về phần tội danh, điều khoản truy tố, hình phạt, trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và các vấn đề khác là có căn cứ và phù hợp với các tình tiết của vụ án đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 38; Điều 50; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Các bị cáo Võ Ngọc L, Thái Văn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt các bị cáo như sau:

Xử phạt bị cáo Võ Ngọc L 10 (Mười) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ tạm giam (ngày28/12/2021).

Xử phạt bị cáo Thái Văn Th 07 (Bảy) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ tạm giam (ngày28/12/2021).

Căn cứ khoản 1 Điều 323; Điều 50; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Tấn Th phạm tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn Th 07 (Bảy) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 14 (Mười bốn) tháng kể từ ngày tuyên án (ngày 14/4/2022). Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Đăk La, huyện Đăk Hà, tỉnh Kon Tum giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trong trường hợp thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật hình sự.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả lại cho bà Hoàng Thị L 04 (bốn) cánh cửa g , có kích thước (1,2 x 0,35 x 0,03)m, trên 04 (bốn) cánh cửa có gắn 12 (mười hai) bản lề bằng kim loại đã cũ có cùng đặc điểm, cánh cửa đã qua sử dụng; 02 (hai) cánh cửa g , có kích thước (1,2 x 0,4 x 0,03)m, trên 02 (hai) cánh cửa có gắn 04 (bốn) bản lề bằng kim loại đã cũ có cùng đặc điểm, cánh cửa đã qua sử dụng.

- Tịch thu và tiêu hủy: Một đèn pin đội đầu, màu đen, đèn pin đã qua sử dụng; Một kìm cắt sắt dài 18cm, có cán cầm bằng nhựa màu đỏ dài 12cm, kìm đã qua sử dụng; Ba bao xác rắn màu đỏ, trên thân bao có vết rách và có dòng chữ màu đen “NHƠN HÒA”, bao đã qua sử dụng.

(Đặc điểm, tình trạng, số lượng vật chứng được thể hiện theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 23 tháng 3 năm 2022 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk Hà với Chi cục thi hành án dân sự huyện Đăk Hà).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sựkhoản 1 Điều 6; điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy Ban Thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Buộc các bị cáo Võ Ngọc L, Thái Văn Th, Nguyễn Tấn Th, m i bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 332; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Các bị cáo, Bị hại, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án (Ngày 14 tháng 4 năm 2022) lên Tòa án nhân dân tỉnh Kon Tum để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 09/2022/HS-ST

Số hiệu:09/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Hà - Kon Tum
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về