TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 09/2022/HS-PT NGÀY 14/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 286/2021/TLPT-HS ngày 29 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo Lê Văn H, do có kháng cáo của bị cáo Lê Văn H đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 332/2021/HS-ST ngày 22 tháng 9 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
- Bị cáo có kháng cáo:
Lê Văn H, sinh năm 1989 tại Thanh Hóa; Nơi ĐKHKTT và nơi cư trú: Thôn G, xã Th, huyện H, tỉnhThanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H1 (đã chết) và bà Đỗ Thị H2; có vợ là Trịnh Thị H3 (đã ly hôn) và 02 con; tiền án: 01. Tại bản án số 244/2020/HS-PT ngày 09/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã xử phạt bị cáo Lê Văn H 06 tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 03/5/2021; tiền sự:
Không; Bị cáo tại ngoại, vắng mặt.
- Bị hại: Chị Lương Thị Thu H4, sinh năm 1983, vắng mặt.
Địa chỉ: Số nhà 55A Trần Khát Ch, phường H, thành phố Th, tỉnh Thanh Hóa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 25/5/2021, Lê Văn H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu xanh - ghi xám, gắn biển kiểm soát 36B6 - 928.51 lưu thông trên đường Trần Khát Ch, phường H, thành phố Th, tỉnh Thanh Hóa, theo hướng vào trung tâm thành phố. Khi đi qua Cầu Chui, đến trước số nhà 55A Trần Khát Ch, phường H, thành phố Th, H nhìn thấy một con chó cảnh dòng Poodle, lông màu nâu của gia đình chị Lương Thị Thu H4. Quan sát thấy đoạn đường vắng người qua lại, xung quanh không có ai, nên H nảy sinh ý định trộm cắp con chó nêu trên. Lúc này H quay xe và dừng bên đường, H ngồi trên xe gọi và vẫy con chó lại, dùng tay phải ôm con chó lên xe rồi chạy xe về số nhà 57 Nguyễn C, phường N, thành phố Th, tỉnh Thanh Hóa gửi ở nhà bạn là chị Bùi Thị A, sinh năm 1989. Khoảng 16 giờ cùng ngày, gia đình chị Lương Thị Thu H4 đã đến nhà chị A tìm thấy con chó có đặc điểm trên và mang về nhà sau đó đến Công an phường H, thành phố Th trình báo sự việc. Đến khoảng 17 giờ 30 phút ngày 25/5/2021, Lê Văn H đã đến Công an phường N, thành phố Th đầu thú và giao nộp xe mô tô nhãn hiệu Exciter màu xanh, gắn biển kiểm soát 36B6 - 928.51 là phương tiện Hào dùng để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.
Tại Kết luận định giá tài sản số 81/KL-HĐĐGTS ngày 14/6/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: 01 con chó cảnh, dòng Poodle chân dài, loại chó cái còn sống, màu nâu, nặng 2,9kg có giá trị 4.000.000 đồng.
Đối với chiếc xe mô tô Yamaha Exciter số khung RLCE 1S9A0BY019003, số máy 1S9A-019006, kết quả tra cứu không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên là của anh Nguyễn Văn Th, sinh năm 1993 ở thôn 6, xã Th, huyện H, tỉnh Thanh Hóa mua lại có biển kiểm soát 88L1 - 07496 và đang chờ làm thủ tục sang tên. Năm 2020, anh Th bán lại cho anh Đỗ Văn Ch, sinh năm 1992, trú tại thôn Đồng N 2, xã Th, huyện H, tỉnh Thanh Hóa với giá 20.000.000 đồng, vì chưa có biển số nên anh Ch đưa trước 15.000.000 đồng và nợ lại 5.000.000 đồng làm thủ tục cấp biển kiểm soát. Sau đó anh Đỗ Văn Ch bán lại cho Lê Văn H với giá 11.000.000 đồng, không có giấy tờ xe và chiếc xe có gắn biển kiểm soát 36B6 - 92851.
Quá trình điều tra xác minh chiếc biển kiểm soát 36B6 - 92851 được cấp cho xe mô tô nhãn hiệu Wave RSX đăng ký tên Lê Thị Ph, sinh năm 1972, trú tại khu phố Ph, thị trấn R, huyện Đ, tỉnh Thanh Hóa. Chị Ph báo cáo chiếc xe mô tô nêu trên của chị bị mất năm 2019. Cơ quan điều tra đã ra quyết định trưng cầu giám định, tại Bản kết luận giám định số 2502/PC09 ngày 06/8/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Biển kiểm soát gửi giám định là đúng mẫu, nên Cơ quan điều tra Công an thành phố Thanh Hóa đã trả lại cho chị Lê Thị Ph là chủ sở hữu hợp pháp.
Đối với một con chó cảnh, dòng Poodle chân dài, loại chó cái còn sống, màu nâu, nặng 2,9 kg, Cơ quan điều tra Công an thành phố Thanh Hóa đã trả lại cho chị Lương Thị Thu H4 là chủ sở hữu hợp pháp, chị H4 không yêu cầu gì thêm về dân sự.
* Bản án số 332/2021/HS-ST ngày 22/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa:
Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Xử phạt: Bị cáo Lê Văn H 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
* Ngày 03/10/2021 bị cáo Lê Văn H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo H vắng mặt.
* Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa: Bị cáo đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai, nhưng vắng mặt không có lý do. Đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo, nhưng không được ra bản án, quyết định không có lợi cho bị cáo.
Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo để quyết định mức hình phạt 09 tháng tù về tội “Trộm căp tài sản”đối với bị cáo là phù hợp, đúng pháp luật. Vì vậy, không có căn cứ chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn H; giữ nguyên Bản án số 332/2021/HS-ST ngày 22/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của các bị cáo Lê Văn H làm theo đúng quy định tại Điều 332, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự, nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm. Bị cáo đã được triệu tập hợp lệ lần hai, nhưng vắng mặt không có lý do, việc vắng mặt của bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử; vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị cáo theo quy định tại điểm c khoản khoản 1 Điều 351 Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo:
Lời khai nhận tội của bị cáo trong giai đoạn điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu khác thu thập trong quá trình điều tra, đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 25/5/2021, trước số nhà 55A Trần Khát Ch, phường H, thành phố Th, tỉnh Thanh Hóa, Lê Văn H đã lợi dụng vào sơ hở của chủ tài sản, lén lút chiếm đoạt của chị Lương Thị Thu H4 một con chó cảnh, dòng Poodle chân dài, loại chó cái còn sống, màu nâu, nặng 2,9kg, trị giá 4.000.000 đồng.
Với hành vi trên, Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa tuyên xử bị cáo Lê Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Ðiều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc đầy đủ tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội là không lớn, tình tiết tăng nặng là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s (thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải) khoản 1, khoản 2 (đầu thú) Điều 51 của Bộ luật Hình sự để quyết định mức hình phạt 09 tháng tù đối với bị cáo là có căn cứ.
Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng cũng không có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới để Hội đồng xét xử xem xét. Vì vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo. Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm là có căn cứ.
[3] Về án phí phúc thẩm: Bị cáo Lê Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
* Căn cứ: Điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Văn H. Giữ nguyên bản án số 332/2021/HS-ST ngày 22/9/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa:
Căn cứ: Khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự;
Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”;
Xử phạt: Bị cáo Lê Văn H 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án.
* Án phí phúc thẩm: Buộc bị cáo Lê Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
* Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
* Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 09/2022/HS-PT
Số hiệu: | 09/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về