Bản án về tội trộm cắp tài sản số 103/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 103/2023/HS-PT NGÀY 30/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 66/2023/TLPT-HS ngày 02 tháng 02 năm 2023 đối với các bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn N, Vũ Tiến S và Chu Văn Đ về tội “Trộm cắp tài sản”. Do Bản án hình sự sơ thẩm số 113/2022/HS-ST ngày 28 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng bị kháng cáo.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1) Nguyễn Văn C. (tên gọi khác: không); Sinh ngày 10/12/1968 tại Quảng Nam; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: tổ 72, phường H3, quận C, thành phố Đà Nẵng; nghề nghiệp: Nhân viên bảo vệ; trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Đình P và bà Nguyễn Thị L (Đều đã chết); Vợ là Nguyễn Thị C1, sinh năm 1965; Có 02 con, lớn sinh năm 1985 và nhỏ sinh năm 1994; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 18/6/2021. Có mặt tại phiên tòa.

2) Nguyễn Văn N. (tên gọi khác: không); Sinh ngày 10/3/1990 tại Thanh Hóa; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: Số 98 đường S1, phường H4, quận L1, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Buôn bán phế liệu; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ôngNguyễn Văn T1 và bà Nguyễn Thị H5 (Đều còn sống); Vợ là Nguyễn Thị H6, sinh năm 1992; Có 02 con, lớn sinh năm 2012 và nhỏ sinh năm 2013; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 12/6/2021. Có mặt tại phiên tòa.

3) Vũ Tiến S. (tên gọi khác: không); Sinh ngày 01/11/1995 tại Thanh Hóa; Nơi ĐKNKTT: khu phố Q, phường Q1, thành phố S2, tỉnh Thanh Hóa; Tạm trú: đường Đ2, phường Đ2, thị xã Đ3, tỉnh Quảng Nam; Nghề nghiệp: Buôn bán phế liệu; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Tiến V và bà Nguyễn Thị M (Đều còn sống); Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giam ngày 12/6/2021. Có mặt tại phiên tòa.

4) Chu Văn Đ. (tên gọi khác:không); Sinh ngày 07/6/1998, tại: Thanh Hóa; Nơi ĐKNKTT: phường Q1, thành phố S2, tỉnh Thanh Hóa; Tạm trú: 151 đường T2, phường H6, quận C, thành phố Đà Nẵng; Nghề nghiệp: Buôn bán phế liệu; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Chu Văn L2 và bà Hoàng Thị L3 (Đều còn sống); Vợ là Nguyễn Thị Ng, sinh năm 2000, có 01 con sinh tháng 09/2022; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 15/8/2022. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn C: Ông Thái Quốc V, Luật sư Công ty Luật TNHH MTV TT, thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn N: Ông Trần Văn Đ1, Luật sư Công ty Luật TNHH Đ2 thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Vũ Tiến S: Ông Lê Văn A, Luật sư Văn phòng Luật sư L thuộc Đoàn Luật sư thành phố Đà Nẵng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 26/5/2021, Công ty TNHH Cơ khí xây dựng G do ông Ông Ích Tr làm Giám đốc có ký kết Hợp đồng kinh tế với Công ty Cổ phần tập đoàn C2, chủ đầu tư công trình để lắp đặt thiết bị sắt thép và vận chuyển 606 tấn thiết bị sắt thép đặc chủng (đã được gia công theo thiết kế công trình với các kích thước khác nhau, sắt hình dạng chữ H thanh dài nhất là 12m, ngắn nhất 0,75m) đến công trình hầm chui cầu T, đoạn giao giữa đường D và N1, phường H, quận H1, thành phố Đà Nẵng để trong công trường, được rào chắn xung quanh để chuẩn bị thi công dự án giai đoạn 2.

Trước đó, ngày 21/5/2020, Công ty Cổ phần tập đoàn C2 ký kết Hợp đồng kinh tế với Công ty TNHH MTV Dịch vụ bảo vệ H2 để thuê dịch vụ bảo vệ 24/24 giờ đối với khu vực công trường thuộc dự án cải tạo cụm nút giao thông phía tây cầu T. Nhân viên bảo vệ có nhiệm vụ gác cổng, trước 09 giờ hàng ngày phải báo cáo tình hình tại công trình cho Công ty Cổ phần tập đoàn C2.

Nguyễn Văn C được Công ty TNHH MTV Dịch vụ bảo vệ H2 phân công bảo vệ tại công trình. Trong thời gian làm việc tại đây, thấy tài sản để sơ hở, nên C đã cấu kết với các đối tượng bên ngoài nhiều lần trộm sắt của công trình bán lấy tiền tiêu xài. Cụ thể:

- Vụ thứ nhất: Khoảng 08 giờ ngày 05/6/2021,Nguyễn Văn C tìm kiếm thông tin trên mạng xã hội và liên lạc với Nguyễn Văn N, người thu mua sắt phế liệu để hỏi bán sắt công trình, N đồng ý. C hẹn N đến công trình hầm chui phía tây cầu T để xem và trao đổi việc mua bán sắt. Khi N đến, C mở cửa công trình để N vào xem sắt và đồng ý mua giá 10.000đồng/kg. Sau đó, N liên lạc với ông Chu Văn L2 để hỏi bán sắt. Ông L2 đưa số điện thoại của Chu Văn Đ (con trai của ông L2) cho N. N liên hệ với Chu Văn Đ và gửi ảnh sắt qua mạng zalo cho Đ xem, báo cho Đ khối lượng sắt khoảng 50 tấn đến 70 tấn, Đ đồng ý mua giá 11.000 đồng/kg. Khoảng 11 giờ cùng ngày, Đ đem theo cân điện tử loại 5 tấn, thuê xe cẩu (không rõ thông tin) và ba người bốc vác (không rõ lai lịch) đến trước công trình gặp N và cùng N ngồi chờ đến giờ để vào công trình. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, lúc người làm việc tại công trình nghỉ trưa, C mở cửa công trình để N và nhóm người của Đ vào. Tại vị trí để sắt, C chỉ sắt để nhóm của Đ móc lên cân và cẩu lên xe, gồm khoảng 02 thanh sắt dài khoảng 10m và 06 thanh sắt dài khoảng 6m. Số sắt này cân đượchơn 11 tấn, nhưng thống nhất tính 11 tấn. Đ đưa cho C số tiền 110.000.000 đồng, C cho những người bốc sắt 2.000.000 đồng. Sau đó, N đến nhà Đ. Tại đây, Đ đưa cho N số tiền chênh lệch là 11.000.000 đồng. N tiếp tục rủ Đ mua sắt nhưng Đ không mua nữa. Đến ngày 06/6/2021, Đ thuê xe (không rõ thông tin) vận chuyển số sắt trên kèm với sắt phế liệu đã mua chỗ khác đến tỉnh Thái Nguyên bán cho một người tên Hoa (không rõ lai lịch) với giá 12.000 đồng/kg. Số sắt này Cơ quan Điều tra không thu hồi được.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 56 ngày 21/3/2022, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự quận H1, thành phố Đà Nẵng, kết luận: sắt có đơn giá 19.800 đồng/kg, 11 tấn sắt bị chiếm đoạt trị giá là 217.800.000 đồng.

- Vụ thứ hai: Chiều ngày 07/6/2021, C tiếp tục liên lạc với N để đến công trình mua sắt. Do Đ không mua nữa, nên N liên lạc với Vũ Tiến H6 để bán sắt. H6 cho N số điện thoại của Vũ Tiến S (em ruột của H6) để trực tiếp trao đổi mua bán sắt. N liên hệ với S trao đổi mua bán khoảng hơn 10 tấn sắt và hẹn khoảng 19 giờ cùng ngày đến công trình cầu T. S đã thuê Nguyễn Việt B1 dùng xe ô tô BKS 43A- 482.92 (thuê của Công ty Đ4 do ông Nguyễn Văn S3 làm Giám đốc) chở đến điểm hẹn. Đồng thời, S gọi thêm những người thường bốc vác thuê cho S đến trước công trình để chờ bốc sắt, gồm: Vũ Tiến Th1 (là em họ của S), Trịnh Thế Tr1, Vũ Tiến B2, Vũ Tiến N2, Nguyễn Đỗ Ch, Nguyễn Văn C2. S nhờ Trịnh Thế Tr1 tìm thuê xe cẩu đến để cẩu sắt. Tại quán nước gần công trình, N nói với S đây là sắt dùng xây dựng công trình, đã lo xong bảo vệ hết rồi chỉ cần đưa xe vào họ chỉ cây nào thì bốc cây đó và bốc nhanh trong vòng 02 tiếng, S nói với N khi vào công trình sẽ cân gian bằng cách khi cẩu sẽ gác một đầu thanh sắt chạm đất để có khối lượng nhẹ hơn thực tế, N và S thống nhất sẽ tạm tính khối lượng chênh lệch so với khối lượng sẽ tính với C để chia đôi cho N theo giá 10.000đồng/kg, N và S thống nhất khi S cân lại sẽ tính lại khối lượng chênh lệch chính xác. S liên lạc với Chu Ngọc D1 để mượn cân điện tử (loại 05 tấn) và nhờ D1 mang đến, D1 rủ Văn Đình Th2 và Cường (không rõ lai lịch) đi cùng để bốc sắt thuê cho S kiếm tiền.

Khoảng 20 giờ cùng ngày, khi xe cẩu đến (không rõ lai lịch của lái và phụ xe cẩu), C mở cổng cho xe vào công trình, N nói chỉ cần dẫn ít người vào nên S nói D1, Tr1, Th2 đi cùng vào trong công trình để giúp cẩu sắt (những người còn lại ngồi ở quán nước). Tại đây, C chỉ sắt để D1, Th2, Tr1 cùng người bên xe cẩu phụ móc và cẩu sắt lên xe. Số sắt cẩu được gồm 03 thanh sắt dài khoảng 12m và 10 thanh sắt dài khoảng 03m,khối lượng sắt tính với C là 9,9 tấn, S tính tiền cho C là 99.000.000 đồng, C cho những người bốc sắt 2.000.000 đồng. Ra khỏi công trình, N và S tạm tính khối lượng sắt cân dư khoảng 8,6 tấn và N thống nhất cho số người bốc vác 2.000.000 đồng nên S nhờ Th1 chuyển khoản cho N 41.000.000 đồng. Số sắt này, S chở về để ở bãi đất trống phía sau nhà trọ của S tại đường Đ1, phường Đ2, thị xã Đ3, tỉnh Quảng Nam.

- Vụ thứ ba: Khoảng 10 giờ ngày 09/6/2021, C tiếp tục liên hệ với N để chuẩn bị xe và sắp xếp thời gian vào công trình lấy sắt. N liên lạc với S để lấy sắt với phương thức thủ đoạn như lần trước, S đồng ý. S bận việc nên đã nhờ Vũ Tiến H6 (anh của S) giúp gọi xe cẩu và người đến bốc sắt. H6 nhờ Trịnh Thế Tr1 thuê xe cẩu và gọi Nguyễn Văn C2, Vũ Tiến N2, Nguyễn Đỗ Ch, Lê Viết Đ, Nguyễn Viết B1 điều khiển xe ô tô 43A-482.92 chở đến công trình. Đồng thời, S nhờ Vũ Tiến Th1 đến để kiểm đếm sắt và thanh toán tiền giúp S. Trước đó, S nhờ chị Nguyễn Thị D2 (chị dâu của S) chuyển tiền vào tài khoản của Th1 để giao dịch mua bán sắt. Trước khi Th1 đi, S trao đổi với Th1 chuyển khoản theo yêu cầu của N, việc mua bán sắt S và N đã thống nhất từ trước, S không nói cho Th1 biết nguồn gốc sắt và việc mua bán như thế nào.

Khoảng 12 giờ cùng ngày, khi xe cẩu đến trước công trình (không rõ lai lịch của lái và phụ xe), C nhắn tin qua zalo để trao đổi với N nội dung sợ không kịp thời gian và hẹn tối, nhưng N vẫn nói C mở cổng để xe cẩu và Th1, Tr1, C2, Đ đi cùng N vào công trình (những người còn lại ở ngoài, H6 ngồi ở quán nước một lúc rồi về trước do bận việc). Khi vào bên trong, C chỉ sắt để Tr1, C2, Đ cùng người của nhà xe phụ móc và cẩu sắt lên xe, gồm 04 thanh dài khoảng 10m và 01 thanh sắt dài khoảng 03m. Lần này C và N thống nhất không cân sắt mà chỉ ước lượng theo khối lượng đã cân lần trước, khối lượng được tính với C là 7,2 tấn. N nói Th1 chuyển khoản cho C 72.000.000 đồng. Khi xe cẩu chở sắt ra khỏi công trình, N tự tính số sắt chênh lệch và nói Th1 chuyển khoản cho N 47.000.000đồng, Th1 đã chuyển tiền theo yêu cầu của N và báo lại cho S biết. Những người được gọi đi bốc vác theo xe cẩu và xe ô tô do B1 điều khiển đưa số sắt thép về bãi phía sau nhà trọ của S.

Cùng ngày, S thuê xe cẩu Văn Quý (không biết thông tin cụ thể) và thuê xe vá lốp lưu động (không rõ thông tin) để tháo vít các thanh sắt thép dài rồi cẩu toàn bộ số sắt này lên xe đầu kéo biển kiểm soát 36C- 157.41 vận chuyển đến tỉnh Nam Định tiêu thụ, nhưng chưa kịp tiêu thụ thì bị Cơ quan CSĐT Công an quận H1 phát hiện bắt giữ.

Ngày 12/6/2021, Vũ Tiến S nhờ anh Trương D1 Quyền thuê xe chở toàn bộ số sắt trộm được giao nộp tổng khối lượng 32,38807 tấn sắt.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 74/KL-HĐĐG ngày 16/6/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận H1, xác định: Trị giá tài sản chiếm đoạt 641.283.786 đồng.

Quá trình điều tra, người bị hại là ông Ông Ích Tr, Giám đốc Công ty TNHH G yêu cầu bồi thường thiệt hại số sắt không thu hồi được và bồi thường chậm tiến độ để khắc phục hậu quả do việc mất trộm tài sản làm công trình bị gián đoạn với số tiền 200.000.000 đồng.

Vật chứng, đồ vật, tài sản tạm giữ:Sắt do Vũ Tiến S giao nộp: 01 (một) thanh sắt, màu nâu - đỏ (gỉ sét) được ghép lại từ 02 (hai) thanh sắt ký hiệu: K2- TN17.1 + K2-TN17.2;01 (một) thanh sắt, màu nâu - đỏ (gỉ sét) được ghép lại từ 02 (hai) thanh sắt ký hiệu: K2-TN16.1 + K2-TN16.2;01 (một) thanh sắt, màu nâu - đỏ (gỉ sét) ký hiệu: K1-W1.18;01 (một) thanh sắt, màu nâu - đỏ (gỉ sét) ký hiệu: K2-W2.9;01 (một) thanh sắt, màu nâu - đỏ (gỉ sét) ký hiệu: K2-W1.4;01 (một) thanh sắt, màu nâu - đỏ (gỉ sét) ký hiệu: K2-W2.4;01 (một) thanh sắt, màu nâu - đỏ (gỉ sét) ký hiệu: K2-W2.2;11 (mười một) thanh sắt, màu nâu - đỏ (gỉ sét) gọi là thanh chéo; 18 (mười tám) tấm sắt, màu nâu - đỏ (gỉ sét), gọi là bản táp cánh (tấm); Số tiền 33.000.000 đồng do Nguyễn Văn N giao nộp; Số tiền 7.000.000 đồng do Chu Văn Đ giao nộp; Số tiền 4.755.000 đồng tạm giữ của Vũ Tiến Th1; Số tiền 100.000.000 đồng, do Vũ Thị Hường (vợ của N) nộp để khắc phục, nộp tại Kho bạc nhà nước thành phố Đà Nẵng; Số tiền 210.800.000 đồng, do gia đình Chu Văn Đ giao nộp tại Cục thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng; 01 cân điện tử loại 05 tấn, có chữ CAP.5000 kg CRANE SCALE (do Chu Ngọc D1 giao nộp); 01 cân điện tử loại 05 tấn, có chữ Max 5t (do Chu Văn Đ giao nộp); 01 ĐTDĐ hiệu Oppo A5S, màu xanh, số Imei1: 865222041116496 + 01 ĐTDĐ hiệu Nokia 105, màu xanh da trời, số Imei: 354198105577336 của Nguyễn Văn N; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 12 pro max, màu gold, số Imei1 355018171827945 của Vũ Tiến S; 01 ĐTDĐ hiệu Samsung A71, màu xanh đen, số Imei1 353408117460582 của Vũ Tiến Th1; 01 xe ô tô màu bạc, biển kiểm soát 43C-482.92 (Xe này Vũ Tiến S nhờ Lê Quang Anh thuê của Công ty TNHH TM & DV Đ4, ông Nguyễn Văn S3 là Giám Đốc.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 113/2022/HS-ST ngày 28 tháng 12 N 2022, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đã quyết định:

1. Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn N, Vũ Tiến S, Chu Văn Đ phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1.1 Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173, điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn C 11 (mười một) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/6/2021.

1.2 Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173, điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn N 08 (tám) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/6/2021.

1.3 Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173, điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Vũ Tiến S 07 (bảy) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/6/2021.

1.4 Căn cứ điểm a khoản 3, Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Chu Văn Đ 02 (hai) năm tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/8/2022.” Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và công bố quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 31/12/2022, bị cáo Chu Văn Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 04/01/2023, bị cáo Nguyễn Văn C kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 07/01/2023, bị cáo Nguyễn Văn N và Vũ Tiến S kháng cáo cùng nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn N, Vũ Tiến S và Chu Văn Đ giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Luật sư Lê Văn A vắng mặt vì phải tham gia phiên tòa tại Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng, bị cáo Vũ Tiến S đề nghị không cần luật sư bào chữa cho bị cáo mà bị cáo tự bào chữa cho mình và yêu cầu Tòa án tiếp tục giải quyết vụ án. Thấy bị cáo Vũ Tiến S bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 07 năm tù, bị cáo không bị kháng cáo, kháng nghị theo hướng tăng hình phạt, nay bị cáo tự nguyện tự bào chữa nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt Luật sư Lê Văn A theo đề nghị của đại diện VKSND cấp cao tại Đà Nẵng.

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng phát biểu ý kiến giải quyết vụ án: Quá trình giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tòa án xử các bị cáo với mức hình phạt là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn N và Vũ Tiến S đều không có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo. Đối với bị cáo Chu Văn Đ, tại phiên tòa phúc thẩm gia đình bị cáo xuất trình thêm 03 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo phạm tội với vai trò đồng phạm giản đơn, các bị cáo không có bàn bạc thống nhất ý trí, bị cáo khi vào lấy sắt ở công trường không biết đó là hành vi trộm cắp tài sản nên thấy cần áp dụng thêm khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự để giảm hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa và trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, trình bày của bị cáo, luật sư.

[1]. Theo bản án hình sự sơ thẩm và tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai nhận tội của bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn N, Vũ Tiến S và Chu Văn Đ tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp bản kết luận định giá, tang vật thu giữ, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có đủ cơ sở xác định: Nguyễn Văn C được Công ty TNHH MTV Dịch vụ bảo vệ H2 cử làm bảo vệ tại Công trường dự án cải tạo nút giao thông cầu T. Do thấy tài sản ở công trường có nhiều sơ hở trong việc bảo vệ nên C đã liên lạc với Nguyễn Văn N để bán sắt công trình. N vào công trường xem sắt rồi thỏa thuận giá mua 10.000 đồng/kg. Sau đó, N liên hệ để bán cho Chu Văn Đ 01 lần số lượng 11 tấn sắt, trị giá là 217.800.000 đồng và bán cho Vũ Tiến S 02 lần với số lượng 32,38807 tấn trị giá 641.283.786 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn N, Vũ Tiến S về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 173 và Chu Văn Đ cùng về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm a khoản 3 Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[2] Xét kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn C, thấy: Bị cáo được Công ty TNHH MTV Dịch vụ bảo vệ H2 giao nhiệm vụ bảo vệ công trình, nhưng chính bị cáo lại nảy sinh ý định trộm cắp tài sản và chủ động liên lạc với Nguyễn Văn N để cùng thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo tham gia 3 lần với tổng giá trị tài sản trộm cắp là 859.083.786 đồng. Như vậy, Nguyễn Văn C là người khởi xướng, giữ vai trò chính trong vụ án và bị truy tố xét xử theo khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng cho bị cáo tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để từ đó xử phạt bị cáo 11 năm tù là phù hợp. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có thêm thình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[3] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn N: Sau khi được bị cáo Nguyễn Văn C liên hệ thì bị cáo đã rất tích cực phạm tội, chủ động liên lạc với Chu Văn Đ, Vũ Tiến S để các bị cáo này đến công trường dự án cải tạo cụm nút giao thông phía tây cầu T lấy sắt. Bị cáo N cũng tham gia trộm cắp 3 lần như bị cáo Nguyễn Văn C và cũng bị truy tố theo khoản 4 Điều 173 Bộ luật hình sự. Do bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường, khắc phục một phần hậu quả, có bố là thương binh loại A và có nhân thân tốt nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt 08 năm tù là phù hợp. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nguyễn Văn N.

[4] Xét kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Vũ Tiến S: Bị cáo tham gia trộm cắp 2 lần, với tổng tài sản trộm cắp là 641.283.786 đồng. Bị cáo bị truy tố theo khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự, có khung hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, Tòa án cấp sơ thẩm đánh giá vai trò của bị cáo thấp hơn Nguyễn Văn N nên chỉ xử phạt 07 năm tù, là mức khởi điểm của khoản 3 Điều 173 Bộ luật hình sự là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Vì vậy, không chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Vũ Tiến S.

[5] Xét kháng cáo của bị cáo Chu Văn Đ: Sau khi bàn bạc thống nhất với Nguyễn Văn C, bị cáo Nguyễn Văn N liên hệ với Chu Văn Đ để bán sắt, quá trình giao dịch thì N chỉ gửi ảnh sắt qua phần mềm Zalo cho Đ, thời điểm này bị cáo Chu Văn Đ không biết đó là sắt trộm nên đã đồng ý mua sắt với giá 11.000 đồng/kg sắt. Quá trình Đ đến công trình để mua sắt thì C, N cũng không nói cho Đ biết đây là sắt trộm, mà sau khi chở sắt về nhà, Đ nghi ngờ đó là sắt trộm nên khi bị cáo N tiếp tục rủ mua sắt thì bị cáo ý thức được việc làm sai trái của mình và từ chối. Quá trình điều tra, mặc dù các bị cáo C, N cùng với bị cáo chịu trách nhiệm chung với trị giá tài sản trộm cắp là 217.800.000 đồng, nhưng bị cáo Đ đã tự nguyện chủ động nộp toàn bộ số tiền thiệt hại là 217.800.000 đồng để khắc phục khó khăn cho Công ty TNHH Cơ khí xây dựng Gia Hưng trong việc đảm bảo tiến độ công trình xây dựng. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo Đ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cụ thể là: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, chưa có tiền án, tiền sự, bị cáo tham gia nhiệt tình các công tác thiện nguyện hỗ trợ giúp đỡ người ngèo, người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, đối tượng bảo trợ xã hội, trẻ em mồ côi với số tiền 55.000.000 đồng, được Ủy ban nhân dân phường Q1, Ban công tác Mặt trận khu phố Hồng Hải xác nhận, bị hại xin giảm hình phạt để từ đó xử phạt 02 năm tù là phù hợp. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, gia đình bị cáo xuất trình “Đơn xin xác nhận thân nhân liệt sỹ” thể hiện ông nội của bị cáo là liệt sỹ, Ủy ban nhân dân phường Q1, thành phố S2, tỉnh Thanh Hóa xác nhận Chu Văn Đ đã tích cực tham gia phong trào phòng chống dịch bệnh trong đại dịch Covid 19, gia đình bị cáo cũng đã bồi thường số tiền thiệt hại của Công ty G (theo xác nhận ngày 20/3/2023 của Công ty G) đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới mà cấp sơ thẩm chưa xem xét. Do bị cáo phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt, giữ vai trò đồng phạm giúp sức không đáng kể, bị cáo phạm tội ở thế bị động, khi mua thì không biết đấy là sắt trộm nên có cơ sở để chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng áp dụng khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự để giảm một phần hình phạt để bị cáo có cơ hội chăm sóc gia đình (bị cáo có con nhỏ mới sinh ngày 28/8/2022, thời điểm này đang bị tạm giam) và cũng đủ tác dụng giáo dục đối với bị cáo.

[6] Án phí: Kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn N và Vũ Tiến S không được chấp nhận nên phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Kháng cáo của Chu Văn Đ được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn N và Vũ Tiến S. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 113/2022/HSST ngày 28/12/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đối với các bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn N và Vũ Tiến S.

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173, điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự;

1. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn C 11 (mười một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/6/2021.

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173, điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự;

2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn N 08 (tám) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/6/2021.

Căn cứ điểm a khoản 4 Điều 173, điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự;

3. Xử phạt: Bị cáo Vũ Tiến S 07 (bảy) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/6/2021.

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Chu Văn Đ. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 113/2022/HSST ngày 28/12/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng đối với bị cáo Chu Văn Đ.

Căn cứ điểm a khoản 3, Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

khoản 2 Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự;

4. Xử phạt: Bị cáo Chu Văn Đ 09 (chín) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/8/2022.

5. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 288 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 48 Bộ luật hình sự; Giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ số: 01/2017/GĐ- TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tối cao;

- Buộc bị cáo Nguyễn Văn C, bị cáo Nguyễn Văn N, bị cáo Chu Văn Đ phải có nghĩa vụ liên đới bồi thường cho Công ty TNHH Cơ khí xây dựng G giá trị 11 tấn sắt là 217.800.000 đồng, trong đó chia phần bị cáo Nguyễn Văn C bồi thường 110.000.000 đồng; bị cáo Nguyễn Văn N bồi thường 11.000.000 đồng;

bị cáo Chu Văn Đ bồi thường 96.800.000 đồng (Bị cáo Đ đã nộp toàn bộ số tiền 217.800.000 đồng. Trong đó cha bị cáo Đ là ông Chu Văn L2 nộp 210.800.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0001891 ngày 10/10/2022 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Nẵng và 7.000.000 đồng bị cáo Đ nộp theo giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 30/7/2021 của Sở Tài chính thành phố Đà Nẵng). Do đó, buộc bị cáo C phải có nghĩa vụ bồi hoàn cho bị cáo Đ 110.000.000 đồng; buộc bị cáo N phải có nghĩa vụ bồi hoàn cho bị cáo Đ 11.000.000 đồng.

- Buộc bị cáo C bồi hoàn cho bị cáo S 171.000.000 đồng; buộc bị cáo N bồi hoàn cho bị cáo S 88.000.000 đồng.

- Buộc bị cáo C, bị cáo N, bị cáo S, bị cáo Đ phải liên đới bồi thường cho Công ty TNHH Cơ khí xây dựng G số tiền 200.000.000 đồng. Trong đó chia phần mỗi bị cáo phải bồi thường cụ thể như sau:

Bị cáo Nguyễn Văn C và bị cáo Nguyễn Văn N, mỗi bị cáo phải bồi thường số tiền 66.670.000 đồng;

Bị cáo Vũ Tiến S phải bồi thường số tiền 44.444.000 đồng. (Tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo S đã bồi thường số tiền 15.000.000 đồng do ông Ông Ích Tr nhận) nên bị cáo S còn phải tiếp tục bồi thường số tiền 29.444.000 đồng.

Bị cáo Chu Văn Đ phải bồi thường số tiền 22.222.000 đồng. Tuy nhiên, theo xác nhận ngày 20/3/2023 của ông Ông Ích Tr - Giám đốc Công ty TNHH Cơ khí xây dựng G thì gia đình bị cáo Chu Văn Đ đã bồi thường xong. Ghi nhận bị cáo đã thi hành xong trách nhiệm dân sự.

Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu người phải thi hành án chậm thực hiện nghĩa vụ đối với các khoản tiền phải trả, thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền.

6. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng điểm a khoản 2 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án; Bị cáo Nguyễn Văn C, Nguyễn Văn N và Vũ Tiến S phải chịu số tiền 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo Chu Văn Đ không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

7. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị gồm: xử lý vật chứng, án phí sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

8. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 103/2023/HS-PT

Số hiệu:103/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về