TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SÓC TRĂNG, TỈNH SÓC TRĂNG
BẢN ÁN 08/2022/HS-ST NGÀY 13/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 13 tháng 01 năm 2022, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số153/2021/TLST-HS ngày 22 tháng 12 năm 2021theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:145/2021/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:
Trần Văn T; Tên gọi khác: M. Sinh ngày 19 tháng 3 năm 2001. Nơi cư trú: số 266/33, đường T, khóm X, phường 10, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. Giới tính: Nam. Dân tộc: Khmer; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: không biết chữ; Nghề nghiệp: không. Con ông: Trần S (chết) và bà: Trần Thị S1, sinh năm 1965. Có vợ đã ly hôn và 01 người con. Tiền án: Không. Tiền sự: 02 lần: lần thứ nhất vào ngày 09 tháng 4 năm 2021 bị Công an phường 10, thành phố Sóc Trăng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1670/QĐ- XPHC về hành vi trộm cắp tài sản xảy ra ngày 07 tháng 4 năm 2021 với số tiền 1.500.000 đồng, chưa hết thời gian được coi là chưa bị xử lý hành chính; lần thứ hai vào ngày 13 tháng 4 năm 2021 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường 10, thành phố Sóc Trăng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa hết thời gian được coi là chưa bị xử lý hành chính. Bị cáo Trần Văn T bị bắt theo lệnh truy nã bị tạm giữ ngày 20 tháng 10 năm 2021 và chuyển tạm giam cho đến nay.(có mặt).
- Bị hại: Thạch Rạch A, sinh năm 2003; Địa chỉ: Phòng số 14, nhà trọ N, ấp C, xã K, huyện R, tỉnh Trà Vinh (vắng mặt).
- Người phiên dịch tiếng Khmer: Ông Sơn Si V, Cán bộ Đài phát thanh truyền hình tỉnh Sóc Trăng (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 17 giờ 30 phút, ngày 19 tháng 4 năm 2021, Trần Văn T vào quán cà phê của bà Lê Kim X nằm trong chùa Chrôi Tim Chăs (Chùa Trà Tim cũ), đường Trần Hưng Đạo, khóm T Trung, phường 10, thành phố Sóc Trăng chơi thì thấy anh Thạch Rạch A có sử dụng một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J6 nên T nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại này để sử dụng. Đến khoảng 00 giờ ngày 20 tháng 4 năm 2021, T leo hàng rào vào chùa Chrôi Tim Chăs và nhìn thấy anh A đang ngủ trên chiếc giường tre, T đi đến nơi A nằm ngủ và dùng tay mở dây kéo túi quần của A lén lút lấy chiếc điện thoại, leo qua hàng rào cổng chùa về nhà và cài đặt điện thoại sang chế độ máy bay, cài đặt mật khẩu, thay đổi hình nền điện thoại rồi tiếp tục sử dụng điện thoại này.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 81/KL-HĐĐG ngày 08/5/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận: Một điện thoại di động hiệu Sam sung Galaxy J6, màu đen, số máy SM-J600G/DS, số sêri R58K62Y4WRM, đã qua sử dụng, tỷ lệ sử dụng còn lại 60% có giá là 1.500.000 đồng.
Vào ngày 09 tháng 4 năm 2021, Trần Văn T bị Công an phường 10, thành phố Sóc Trăng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1670/QĐ-XPHC về hành vi trộm cắp tài sản xảy ra ngày 07 tháng 4 năm 2021 với số tiền 1.500.000 đồng, bị cáo chưa đóng phạt, chưa hết thời gian được coi là chưa bị xử lý hành chính.
Tại bản Cáo trạng số 01/CT-VKS-TPST ngày 21/12/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng đã truy tố bị cáo Trần Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng tội.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Trần Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h,i, s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại được tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên không đặt ra xem xét.
Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Tại phiên tòa bị hại Thạch Rạch A vắng mặt. Xét thấy việc vắng mặt người bị hại đã có lời khai làm rõ các tình tiết vụ án, không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ vào Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người bị hại.
[3]. Tại phiên tòa bị cáo Trần Văn T khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, các chứng cứ và tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để Hội đồng xét xử xác định: vào khoảng 00 giờ ngày 20 tháng 4 năm 2021, bị cáo đã lét lút lấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J6, có giá 1.500.000 đồng của bị hại Thạch Rạch A, tại chùa Chrôi Tim Chăs, đường Trần Hưng Đạo, khóm T Trung, phường 10, thành phố Sóc Trăng. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác. Bị cáo chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc trường hợp đã bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản mà còn vi phạm. Do đó, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Trần Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Như vậy, Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Sóc Trăng truy tố đối với hành vi của bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.
[4]. Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Ngoài tiền sự đã được xác định yếu tố cấu thành tội phạm, vào ngày 13 tháng 4 năm 2021 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường 10, thành phố Sóc Trăng áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, chưa hết thời gian được coi là chưa bị xử lý hành chính; Bị cáo là người dân tộc Khmer, không biết chữ; bị cáo bị truy nã nhưng cũng đã ra đầu thú. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; Tài sản mà bị cáo chiếm đoạt đã kịp thời thu hồi trả lại cho người bị hại, nên bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm h,i,s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[5]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử không giải quyết.
[6]. Xét lời đề nghị của kiểm sát viên về việc áp dụng pháp luật là có căn cứ chấp nhận. Về hình phạt cần xử phạt bị cáo ở mức nghiêm khắc như Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi và hậu quả mà bị cáo gây ra, đủ sức răn đe, giáo dục phòng ngừa tội phạm chung.
[7].Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 173; điểm h,i,s khoản 1,2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên bố Bị cáo Trần Văn T phạm tội: “Trộm cắp tài sản” 1. Xử phạt bị cáo Trần Văn T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20 tháng 10 năm 2021.
2. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường, nên Hội đồng xét xử không giải quyết.
3. Án phí hình sự sơ thẩm buộc bị cáo phải nộp là 200.000 đồng (hai trăm ngàn đồng);
Báo cho bị cáo được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại vắng mặt được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được cấp, tống đạt hợp lệ để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử lại theo trình tự phúc thẩm
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 08/2022/HS-ST
Số hiệu: | 08/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Sóc Trăng - Sóc Trăng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/01/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về