TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN U MINH, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 06/2024/HS-ST NGÀY 06/03/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 06 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện U Minh, tỉnh Cà Mau mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 02/2024/TLST-HS ngày 09 tháng 01 năm 2023 theo Qết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2024/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 02 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Trần Văn M, sinh ngày 15/11/2003; Giới tính: Nam; Nơi sinh: huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau; Nơi cư trú: Ấp Mũi Tràm C, xã K, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn Trường và bà Lý Kim Tiền; Bị cáo: chưa có vợ; Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 31/7/2023 bị Ủy ban nhân dân xã Nguyễn Phích ra quyết định xử phạt hành chính số tiền 4.000.000 đồng về hành vi trộm cắp tài sản, ngày 30/8/2023 bị bị Công an xã Khánh Lâm ra Qết định xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 14/9/2023, sau đó chuyển sang tạm giam cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
* Người bị hại:
- Bà Trần Thị N, sinh năm: 1965 (có đơn xin vắng mặt);
Địa chỉ: Ấp 10, xã Khánh Tiến, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.
- Bà Nguyễn Thị S, sinh năm: 1954 (có mặt);
Địa chỉ: Ấp 17, xã Khánh An, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vụ thứ nhất:
Vào khoảng 07 giờ 05 phút, ngày 03/9/2023 Trần Văn M điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave màu đỏ biển số 89H2- X từ nhà ở ấp M, xã K, huyện T, tỉnh C . qua địa phận xã Khánh Lâm, huyện U Minh, tỉnh Cà Mau với mục đích trộm cắp tài sản. Trên đường đi nhằm tránh bị phát hiện nên M tháo biển số xe ra bỏ vào trong cốp xe cất giấu. Khoảng 10 giờ cùng ngày, khi M điều khiển xe đến địa phận thuộc ấp 17, xã Khánh An, huyện U Minh thì phát hiện nhà của bà Nguyễn Thị S - sinh năm 1954 cửa đóng nhưng không khóa nên M nảy sinh ý định đột nhập vào nhà trộm cắp tài sản. Thực hiện ý định, M dừng xe trước lộ, lén mở cửa trước đi vào trong nhà. Khi vào nhà, M lấy 01 điện thoại hiệu Realme 9C, màu đỏ đang để ở đầu giường ngủ và 01 điện thoại hiệu Samsung Galaxy J4plus, màu đen cùng dây sạc điện thoại đang để trên cái rỗ bằng nhựa màu vàng treo trên cột nhà, bỏ vào chiếc cặp da màu nâu của M.
Vụ việc sau đó được Công an xã Khánh An lập biên bản tiếp nhận, đồng thời lập biên bản thu giữ các tài sản gồm:
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J4plus (đã bị hư hỏng do ngập nước).
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme 9c (đã bị hư hỏng do ngập nước).
- 01 (một) dây cáp sạc điện thoại, màu trắng của điện thoại Samsung Galaxy J4plus (đã bị hư hỏng do ngập nước).
- 01 túi da màu nâu (đã qua sử dụng).
- 01 cây chìa khóa có đầu lớn 10 mm, đầu nhỏ 8 mm, đã qua sử dụng.
- 01 cây chìa khóa có đầu lớn 14 mm, đầu nhỏ 10 mm, đã qua sử dụng.
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave màu đỏ, biển số 89H2-X đã qua sử dụng Tại bản kết luận định giá tài sản số 25/KL-HĐĐGTS ngày 27 tháng 9 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện U Minh kết luận:
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J4plus, màu đen, thời điểm ngày 03/9/2023 là 2.214.000 đồng.
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme 9c, nắp lưng màu đỏ, thời điểm ngày 03/9/2023 là 1.992.000 đồng.
- 01 (một) dây cáp sạc điện thoại, màu trắng của điện thoại Samsung Galaxy J4plus là 120.000 đồng.
Tổng cộng 4.326.000 đồng (bốn triệu ba trăm hai mươi sáu nghìn đồng).
Vụ thứ hai:
Vào khoảng 08 giờ 30 phút, ngày 13/9/2023, M mượn xe mô tô nhãn hiệu Winer biển số 69N1-482.35 của K đi mua đồ thì K đồng ý. Sau đó, M điều khiển xe đi đường kênh Chà Là hướng lên Đồn Biên phòng Khánh Tiến để trộm cắp tài sản. Khi M đi đến nhà bà Trần Thị N thuộc ấp 10, xã Khánh Tiến, huyện U Minh thấy không có người ở nhà nên M cạy cửa đi vào trong. Khi đột nhập vào nhà, M lấy trộm số tiền 1.500.000 đồng, 01 điện thoại hiệu Samsung Galaxy A13 màu xanh và 01 sợi dây chuyền vàng 18k có mặt hình ông phật, cất giấu vào trong người rồi bỏ đi ra ngoài.
Đối với bà Trần Thị N sau khi phát hiện mất tài sản liền đến Công an xã Khánh Tiến trình báo. Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra mời Trần Văn M làm việc, đồng thời thu giữ được các tài sản mà M đã chiếm đoạt, riêng số tiền 3.000.000 đồng thì M đã tiêu xài hết.
Tại bản kết luận định giá tài sản số: 24/KL-HĐĐGTS ngày 27/9/2023 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện U Minh kết luận:
01(một) điện thoại đi động nhãn hiệu Samsung Galaxy A13 thời điểm định giá ngày 13/9/2023 là 2.443.000 đồng.
01(một) sợi dây chuyền vàng, có mặt dây chuyền (vàng 61%), có trọng lượng 1,106 lượng thời điểm định giá ngày 13/9/2023 là 36.166.200 đồng.
Tổng cộng: 38.609.200 đồng (Ba mươi tám triệu sáu trăm lẻ chín ngàn hai trăm đồng.
Quá trình điều tra, Trần Văn M thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, đồng thời tác động gia đình khắc phục cho bà Nguyễn Thị S số tiền 4.000.000 đồng, bà Trần Thị N 1.500.000 đồng và ông Nguyễn Văn Hùng sồ tiền 1.500.000 đồng, bị can có người thân có công với cách mạng; bị can phạm tội 02 lần.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 khẩu trang vải màu xanh, sọc vuông trắng; 01 đôi dép nhựa, quay kẹp màu trắng xanh trên quay dép có chữ C; 01 mũ bảo hiểm màu đen, loại nón kết và 01 cái áo sơ mi dài tay, màu xám, có hai túi áo hai bên (đã qua sử dụng) là trang phục mà M mặc khi phạm tội vào ngày 12/9/2023.
- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J4plus (đã bị hư hỏng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme 9c (đã bị hư hỏng); 01 (một) dây cáp sạc điện thoại, màu trắng của điện thoại Samsung Galaxy J4plus (đã bị hư hỏng); 01 túi da màu nâu (đã qua sử dụng); 01 cây chìa khóa có đầu lớn 10 mm, đầu nhỏ 8 mm, đã qua sử dụng; 01 cây chìa khóa có đầu lớn 14 mm, đầu nhỏ 10 mm, đã qua sử dụng là công cụ mà M thực hiện hành vi phạm tội vào ngày 03/9/2023.
- 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave màu đỏ biển số 89H2-X (đã qua sử dụng) mà Trần Văn M dùng làm phương tiện phạm tội, quá trình điều tra xác định xe này M mượn của Nguyễn Trọng K - sinh năm 1991, trú ấp 4, xã Khánh Tiến, huyện U Minh làm phương tiện đi lại, việc M dùng xe làm phương tiện trộm cắp tài sản thì K hoàn toàn không biết. Về nguồn gốc, K khai xe này do K mua lại của Nguyễn Văn N - sinh năm 1992, trú ấp 7, xã Khánh Tiến, huyện U Minh nhưng không có giấy tờ chứng minh việc mua bán, không có giấy đăng ký xe. Mặt khác qua kiểm tra số khung, số máy của xe không phù hợp với thông tin dữ liệu đăng ký xe của Cục Cảnh sát giao thông.
Tại bản cáo trạng số: 02/CT-VKS ngày 08/01/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh truy tố bị cáo Trần Văn M về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa Kiểm sát viên giữ quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn M từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01 khẩu trang vải màu xanh, sọc vuông trắng; 01 đôi dép nhựa, quay kẹp màu trắng xanh trên quay dép có chữ C; 01 mũ bảo hiểm màu đen, loại nón kết và 01 cái áo sơ mi dài tay, màu xám, có hai túi áo hai bên (đã qua sử dụng); 01 túi da màu nâu (đã qua sử dụng); 01 cây chìa khóa có đầu lớn 10 mm, đầu nhỏ 8 mm, đã qua sử dụng; 01 cây chìa khóa có đầu lớn 14 mm, đầu nhỏ 10 mm.
Tịch thu sung quỹ: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J4plus (đã bị hư hỏng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme 9c (đã bị hư hỏng); 01 (một) dây cáp sạc điện thoại, màu trắng của điện thoại Samsung Galaxy J4plus (đã bị hư hỏng).
Đối với xe mô tô nhãn hiệu Wave màu đỏ biển số 89H2-X (đã qua sử dụng) mà Trần Văn M dùng làm phương tiện phạm tội tiếp tục giao cho Công an huyện U Minh quản lý để xử lý sau.
Đối với Phạm Văn Q quá trình điều tra xác định Q không biết nguồn gốc tài sản do M nhờ Q cầm giùm là do trộm cắp mà có, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý đối với Q là phù hợp.
Đối với Lê Chí L quá trình điều tra xác định khi M nhờ L cất giùm sợi dây chuyền thì L không biết nguồn gốc sợi dây chuyền là do trộm cắp mà có, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý đối với L là phù hợp.
Đối với Nguyễn Trọng K có hành vi mua xe của Nguyễn Văn N không rõ nguồn gốc, quá trình điều tra Nguyễn Văn N không có mặt ở địa phương nên chưa làm việc được. Vì vậy, tách ra giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện U Minh tiếp tục điều tra làm rõ có căn cứ xử lý sau.
Về dân sự:
Đối với bà Trần Thị N, quá trình điều tra đã nhận lại tất cả các tài sản bị mất cùng số tiền 1.500.000 đồng mà gia đình Trần Văn M khắc phục nên không có yêu cầu gì thêm về dân sự.
Đối với bà Nguyễn Thị S, quá trình điều tra do hai điện thoại và cáp sạc bị hư hỏng nên yêu cầu bồi thường tổng số tiền 5.000.000 đồng, hiện bà nhận được số tiền bồi thường 4.000.000 đồng, tiếp tục yêu cầu bị cáo bồi thường thêm số tiền 1.000.000 đồng.
Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện U Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định. Bị cáo và người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét thấy lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, nội dung bản cáo trạng, vật chứng cơ quan điều tra thu giữ được, lời khai của những người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 14 tháng 9 năm 2023 của Công an huyện U Minh và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra làm rõ tại phiên tòa hành vi phạm tội của bị cáo được tóm tắt như sau: Vào khoảng 10 giờ, ngày 03/9/2023 tại ấp 17, xã Khánh An, huyện U Minh, lợi dụng sự sơ hở trong quản lý tài sản, Trần Văn M đã lén lút đột nhập vào nhà bà Nguyễn Thị S chiếm đoạt 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J4plus màu đen, 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme 9c và 01 (một) dây cáp sạc điện thoại, màu trắng của điện thoại Samsung Galaxy J4plus, tổng trị giá 4.326.000 đồng nhằm mục đích bán lấy tiền tiêu xài cá nhân thì bị phát hiện bắt giữ.
Đến khoảng 9 giờ 00 ngày 13/9/2023, tại ấp 10, xã Khánh Tiến, huyện U Minh, Trần Văn M đã lén lút đột nhập vào nhà bà Trần Thị N chiếm đoạt số tiền mặt là 1.500.000 đồng; 01(một) điện thoại đi động nhãn hiệu Samsung Galaxy A13 và 01(một) sợi dây chuyền vàng (18K), có trọng lượng 1,106 lượng, tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 40.109.200 đồng.
Do đó cáo trạng số 02/CT-VKS ngày 08/01/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh truy tố bị cáo Trần Văn M về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội với lỗi cố ý, đã xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác một cách trái pháp luật, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Bị cáo là người trưởng thành đủ sức khỏe để lao động kiếm tiền hợp pháp để tiêu xài nhưng do bản tính tham lam, lười lao động muốn hưởng thụ trên công sức của người khác mà không cần lao động nên chiếm đoạt tài sản của người khác tiêu xài cho cá nhân. Do đó cần có mức án tương xứng với hành vi của bị cáo mới đảm bảo tính răn đe và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.
Bị cáo Trần Văn M bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[4] Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo: Tự nguyện khắc phục hậu quả; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt; gia đình có công với cách mạng là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
[5] Xét lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Trần Văn M từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù. Hội đồng xét xử xét thấy lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với bị cáo Trần Văn M là phù hợp. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện học tập, lao động trở thành người công dân có ích cho xã hội.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị S yêu cầu bị cáo bồi thường 1.000.000 đồng, bị cáo đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bà S nên được ghi nhận. Bị cáo đã nộp tiền khắc phục tại Chi cục thi hành án dân sự huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.
[7] Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01 khẩu trang vải màu xanh, sọc vuông trắng; 01 đôi dép nhựa, quay kẹp màu trắng xanh trên quay dép có chữ C; 01 mũ bảo hiểm màu đen, loại nón kết và 01 cái áo sơ mi dài tay, màu xám, có hai túi áo hai bên (đã qua sử dụng); 01 túi da màu nâu (đã qua sử dụng); 01 cây chìa khóa có đầu lớn 10 mm, đầu nhỏ 8 mm, đã qua sử dụng; 01 cây chìa khóa có đầu lớn 14 mm, đầu nhỏ 10 mm.
Tịch thu sung quỹ: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J4plus (đã bị hư hỏng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme 9c (đã bị hư hỏng); 01 (một) dây cáp sạc điện thoại, màu trắng của điện thoại Samsung Galaxy J4plus (đã bị hư hỏng).
Đối với xe mô tô nhãn hiệu Wave màu đỏ biển số 89H2-X (đã qua sử dụng) mà Trần Văn M dùng làm phương tiện phạm tội tiếp tục giao cho Công an huyện U Minh quản lý để xử lý sau.
Vật chứng hiện nay do Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh đang quản lý theo Qết định chuyển vật chứng của Viện kiểm sát nhân dân huyện U Minh và biên bản giao, nhận vật chứng ngày 09 tháng 01 năm 2024 giữa Công an huyện U Minh với Chi cục Thi hành án dân sự huyện U Minh.
[8] Về án phí: Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Trần Văn M phải chịu 200.000 đồng.
[9] Về quyền kháng cáo: Bản án sơ thẩm bị cáo Trần Văn M, bà Nguyễn Thị S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Trần Thị N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Trần Văn M 02 (Hai) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 14/9/2023.
Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự; Điều 587 Bộ luật Dân sự: Buộc bị cáo Trần Văn M bồi thường cho Nguyễn Thị S số tiền 1.000.000 đồng, bà Nguyễn Thị S được nhận số tiền nêu trên tại Chi cục thi hành án dân sự huyện U Minh, tỉnh Cà Mau.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu tiêu hủy 01 khẩu trang vải màu xanh, sọc vuông trắng; 01 đôi dép nhựa, quay kẹp màu trắng xanh trên quay dép có chữ C; 01 mũ bảo hiểm màu đen, loại nón kết và 01 cái áo sơ mi dài tay, màu xám, có hai túi áo hai bên (đã qua sử dụng); 01 túi da màu nâu (đã qua sử dụng); 01 cây chìa khóa có đầu lớn 10 mm, đầu nhỏ 8 mm, đã qua sử dụng; 01 cây chìa khóa có đầu lớn 14 mm, đầu nhỏ 10 mm.
Tịch thu sung quỹ: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy J4plus (đã bị hư hỏng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme 9c (đã bị hư hỏng); 01 (một) dây cáp sạc điện thoại, màu trắng của điện thoại Samsung Galaxy J4plus (đã bị hư hỏng).
Đối với xe mô tô nhãn hiệu Wave màu đỏ biển số 89H2-X (đã qua sử dụng) mà Trần Văn M dùng làm phương tiện phạm tội tiếp tục giao cho Công an huyện U Minh quản lý để xử lý sau.
Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Án phí hình sự sơ thẩm bị cáo Trần Văn M phải chịu 200.000 đồng.
Bản án sơ thẩm bị cáo Trần Văn M, bà Nguyễn Thị S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Trần Thị N có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được quy định tại điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 06/2024/HS-ST
Số hiệu: | 06/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện U Minh - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về