Bản án về tội trộm cắp tài sản số 06/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 06/2024/HS-ST NGÀY 25/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Tịnh Biên xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 68/2023/HSST ngày 22 tháng 12 năm 2023 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2024/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

Huỳnh Thị H, tên gọi khác: Q, sinh năm 1968, nơi sinh tại huyện T, tỉnh An Giang; nơi cư trú và chỗ ở hiện nay: tổ E, ấp B, xã A, thị xã T, tỉnh An Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hóa: 05/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn N, sinh năm 1948 (chết) và bà Phan Thị X, sinh năm 1960 (chết); anh, em ruột: có 05 người, bị cáo là người thứ nhất; chồng Trần Văn S, sinh năm 1965; có một người con, sinh năm 1990.

Tiền án, tiền sự: không;

Bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 11/10/2023 đến nay, bị cáo có mặt.

- Bị hại:

1. Bà Trần Thị Tố M, sinh năm 1984, vắng mặt;

2. Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1984, vắng mặt; Cùng cư trú: tổ F, ấp B, xã A, thị xã T, tỉnh An Giang.

- Người làm chứng:

1. Ông Trần Nhựt T, sinh năm 2000, vắng mặt.

2. Em Nguyễn Trần Kim N1, sinh năm 2007, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ tháng 8/2022 đến ngày 02/8/2023, Huỳnh Thị H được chị Trần Thị Tố M thuê làm việc nhà tại tổ F, ấp B, xã A, thị xã T, tỉnh An Giang.

Khoảng 09 giờ 30 phút ngày 02/8/2023, đang quét dọn trong sảnh nhà của chị M phía trước, H thấy trên ghế gỗ giữa sảnh nhà có một túi xách màu trắng của chị M, xung quanh không ai trông giữ, nên H nảy sinh ý định lấy trộm tiền trong túi xách này. Để thực hiện, H đi đến túi xách, dùng tay kéo dây kéo túi xách lấy trộm 01 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng để vào túi áo bên trái, rồi H kéo dây kéo túi xách lại và tiếp tục quét dọn nhà. Khoảng 01 phút sau, H tiếp tục đi đến dùng tay kéo dây kéo túi xách lấy trộm 3.000.000 đồng (06 tờ mệnh giá 500.000 đồng), rồi H kéo dây kéo lại và để tiền vào khăn lau mang ra phía trước sân nhà góc bên trái, cất giấu 3.000.000 đồng vào trong đống đá. Cất giấu tiền xong, H tiếp tục dọn dẹp nhà và đến chiều cùng ngày thì H đi về nhà. Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, H đi lại đống đá trước nhà chị M lấy 3.000.000 đồng đã cất giấu trước đó, rồi đi về nhà.

Đến ngày 04/8/2023, H thừa nhận hành vi lấy trộm tiền của chị M tại cơ quan Công an và giao nộp lại số tiền 3.500.000 đồng.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 cái áo thun có nền hoa văn màu trắng, đen; 01 cái quần thun nữ, loại quần lửng, có nền hoa văn màu trắng, đen, tạm giữ của bị can Huỳnh Thị H.

- Số tiền 3.500.000 đồng, đã trả lại cho bị hại Trần Thị Tố M.

Tại bản cáo trạng số 06/CT-VKSTB-HS ngày 20 tháng 12 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tịnh Biên đã truy tố bị cáo Huỳnh Thị H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (sau đây gọi tắt Bộ luật Hình sự).

Tại Cơ quan điều tra, - Bị cáo Huỳnh Thị H khai nhận hành vi như đã nêu.

- Bị hại, người làm chứng khẳng định tình tiết vụ án đúng như bị cáo khai nhận.

Tại phiên tòa, - Bị cáo Huỳnh Thị H thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố. Bị cáo xác định đã giao nộp số tiền 3.500.000 đồng cho cơ quan Công an để trả lại cho bị hại. Bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của Kiểm sát viên, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

3 - Bị hại bà Trần Thị Tố M và ông Nguyễn Văn D vắng mặt, trong quá trình điều tra bị hại xác định đã nhận số tiền 3.500.000 đồng, nên không yêu cầu thêm và đề nghị xử lý hình sự đối với bị cáo.

- Kiểm sát viên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tịnh Biên trình bày vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Thị H từ 09 tháng đến 01 năm tù cho hưởng án treo, về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn thử thách từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm.

Biện pháp tư pháp: Đề nghị áp dụng Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

* Tịch thu tiêu huỷ:

- 01 (một) cái áo thun có nền hoa văn màu trắng, đen;

- 01 (một) cái quần thun nữ, loại quần lửng, có nền hoa văn màu trắng, đen.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận được tài sản, không yêu cầu bồi thường thêm nên không đề cập.

Về áp dụng hình phạt bổ sung: Không áp dụng, do bị cáo H có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

- Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã T, Điều tra viên và Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tịnh Biên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng và hợp pháp về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Về sự vắng mặt của bị hại, những người làm chứng, trong quá trình điều tra đã có lời khai và sự vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử. Căn cứ Điều 292, 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[2] Về tội danh:

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Huỳnh Thị H khai nhận do hoàn cảnh nghèo muốn có tiền để lo cho gia đình, trong lúc giúp việc nhà vào khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 02/8/2023 tại nhà của bà Trần Thị Tố M thuộc tổ F, ấp B, xã A, thị xã T, tỉnh An Giang thấy túi sách của M để trên ghế và không có người, nên nảy sinh ý định lấy trộm tài sản.

4 Tại Bản kết luận định giá số 447/KL-KTHS (KTSĐT-GT) ngày 23/11/2023, của Phòng K Công an tỉnh A kết luận: Trích xuấ 23 ảnh từ dữ liệu 01 tập tin. Dữ liệu video lưu trữ USB (ký hiệu A) gửi giám định: không phát hiện dấu vết cắt ghép hay chỉnh sửa.

Từ các chứng cứ trên, có cơ sở xác định, bị cáo Huỳnh Thị H đã lợi dụng sự sơ hở, lén lút lấy trộm tài sản của bị hại, bị cáo đã 02 lần mở túi sách lấy tổng số tiền 3.500.000 đồng và thực hiện hành vi như nội dung của bản Cáo trạng. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hôm nay cũng phù hợp với lời khai của bị cáo đã khai nhận tại Cơ quan điều tra. Đồng thời còn phù hợp với vật chứng vụ án được thu giữ.

Vì vậy, có cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo Huỳnh Thị H có đầy đủ dấu hiệu của tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi và nhân thân của bị cáo:

Bị cáo Huỳnh Thị H là có xuất thân từ thành phần nhân dân lao động, trước khi phạm tội là người có nhân thân tốt vì chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo là người có đủ năng lực, tuy tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại, nhưng hành vi của bị cáo là cố ý, đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của bị hại mà pháp luật quy định cần phải được bảo vệ, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm với hành vi của mình.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

- Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

- Về tình tiết giảm nhẹ: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo đã thành khẩn khai báo và thực sự ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu; trình độ học vấn thấp, hiểu biết pháp luật hạn chế; đồng thời tài sản cũng đã được thu hồi trả lại cho bị hại. Đây là các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Căn cứ vào tính chất mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội và các tình tiết giảm nhẹ, cũng như bị cáo là người có nhân thân tốt, nơi cư trú rõ ràng. Vì vậy, không cần thiết chấp hành hình phạt tù mà cho cải tạo tại địa phương, cũng đủ để giáo dục và phòng ngừa chung, đồng thời thể hiện tính nhân đạo của pháp luật; đối chiếu quy định cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo tại Điều 65 Bộ luật Hình sự và quy định tại Điều 2, Điều 4 Nghị quyết 02/VBHN-TANDTC ngày 07/9/2022 thì vẫn đảm bảo chấp hành hình phạt có điều kiện bằng án treo cho bị cáo.

Do đó, mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tịnh Biên đề nghị áp dụng đối với bị cáo Huỳnh Thị H là tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm về hành vi phạm tội.

[4] Biện pháp tư pháp:

* Tịch thu tiêu huỷ:

- 01 (một) cái áo thun có nền hoa văn màu trắng, đen;

- 01 (một) cái quần thun nữ, loại quần lửng, có nền hoa văn màu trắng, đen.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận được tài sản, không yêu cầu bồi thường nên không đặt ra giải quyết.

[6] Về áp dụng hình phạt bổ sung: Không áp dụng, do bị cáo H có hoàn cảnh kinh tế khó khăn.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 của Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Thị H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Xử phạt:

- Bị cáo Huỳnh Thị H 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm 06 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 25/01/2024.

Giao bị cáo Huỳnh Thị H cho Ủy ban nhân dân xã A, thị xã T, tỉnh An Giang giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

* Tịch thu tiêu quỹ:

- 01 (một) cái áo thun nữ, sát nách có nền hoa văn màu trắng, đen;

- 01 (một) cái quần thun nữ, loại quần lửng, có nền hoa văn màu trắng, đen.

Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 26/12/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã T và Chi Cục thi hành án dân sự thị xã Tịnh Biên).

4. Về trách nhiệm dân sự: Tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại, không có yêu cầu nên không đề cập.

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Huỳnh Thị H phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng thời hạn kháng cáo của bị hại vắng mặt là 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

93
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 06/2024/HS-ST

Số hiệu:06/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về