Bản án về tội trộm cắp tài sản số 06/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỘI AN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 06/2022/HS-ST NGÀY 20/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 20 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 01/2022/TLST- HS ngày 06/01/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 01 năm 2022, đối với bị cáo:

Lê Đ, sinh ngày 28/11/1992; tại Hội An, Quảng Nam; đăng ký hộ khẩu thường trú: Khối A, phường M, thành phố H, tỉnh Quảng N; chỗ ở hiện nay: Tổ 16, thôn N, xã C, thành phố H, tỉnh Q; nghề nghiệp: Lái thuyền; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đ1 và bà Nguyễn Thị L, có vợ Đỗ Thị H1 và 01 con; tiền án: ngày 19/5/2020 bị Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xử phạt 09 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, tiền sự: ngày 28/4/2020, Lê Đ bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Quảng Nam xử phạt hành chính 1.000.000 đồng về hành vi “sử dụng trái phép chất ma túy”; Nhân thân: Ngày 22/6/2010, bị Công an thành phố Hội An xử phạt hành chính 350.000 đồng về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”, ngày 08/8/2014, bị Tòa án nhân dân thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ngày 16/8/2016, bị Ủy ban nhân dân phường Minh An, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam xử phạt hành chính 500.000 đồng về hành vi “Đánh nhau” ngày 05/10/2017, bị Ủy ban nhân dân phường Minh An, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Đánh bạc trái phép”, ngày 04/01/2018, bị Ủy ban nhân dân phường Minh An, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam xử phạt vi phạm hành chính 950.000 đồng về hành vi “Không khai báo tạm trú” và “Sử dụng trái phép chất ma túy”; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/10/2021, có mặt.

- Bị hại: Ông Trần Quang T, sinh ngày 12/10/1974; Địa chỉ: Số 85/14- đường X, phường P, thành phố H, tỉnh Q, vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Hồ Văn Nguyên Q, sinh ngày 09/11/1984; Địa chỉ: Số 46- đường N, phường A, thành phố H, tỉnh Q, vắng mặt.

2. Ông Bùi H, sinh ngày 29/3/1993; Địa chỉ: Số 47- đường S, phường M, thành phố H, tỉnh Q, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 14/9/2021, tại bến xe buýt Hội An (thuộc phường Tân An, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam), Lê Đ phát hiện trong xe ô tô biển kiểm soát 92A-X của anh Trần Quang T đang đậu tại đây có 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 10+ màu đen của anh T để trên ghế trước bên trái nhưng không đóng cửa xe. Lê Đ lén lút chiếm đoạt chiếc điện thoại của anh T. Khoảng 07 giờ 30 phút ngày 14/9/2021, Lê Đ mang điện thoại của anh T đến tiệm điện thoại di động Quang Mobile tại số 46 đường N, phường A, thành phố H, tỉnh Q bán cho anh Hồ Văn Nguyên Q với giá 7.000.000 đồng tiêu xài cá nhân.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 42/KL-ĐGTS ngày 07/10/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hội An xác định 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 10+ màu đen của anh Trần Quang T tại thời điểm bị chiếm đoạt có giá trị 13.600.000 đồng.

Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã thu giữ: Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra thu giữ 01 xe mô tô hiệu SINUDA biển kiểm soát 92F1-X do ông Nguyễn Hữu L, trú tại: 22/24 Nguyễn Công T, thành phố H đứng tên chủ sở hữu, đã tặng cho con rể là Bùi T1 sử dụng. Sau đó, Bùi T1 bán lại xe này cho Bùi H1. Sau khi điều tra làm rõ, ngày 13/12/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hội An ban hành quyết định xử lý vật chứng số 28/QĐ trả lại cho chủ sở hữu là anh Bùi H1.

Về trách nhiệm dân sự, quá trình điều tra bị hại Trần Quang T không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại.

Tại bản Cáo trạng số 04/CT-VKSHA ngày 05/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hội An đã truy tố bị cáo Lê Đ về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa; Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hội An tham gia phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo Lê Đ theo như Cáo trạng nêu trên, đồng thời nhận định: Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp tái phạm, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn, bị cáo đã ra đầu thú khai nhận hành vi phạm tội của mình và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173, các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự để xử phạt bị cáo từ 15 đến 18 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Lê Đ khai nhận: Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 14/9/2021, tại bến xe buýt Hội An (thuộc phường Tân An, thành phố Hội An, tỉnh Quảng Nam), bị cáo Lê Đ đã lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 10+ màu đen của anh Trần Quang T. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đồng thời theo kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thành phố Hội An thì tài sản do bị cáo chiếm đoạt có giá trị 13.600.000 đồng. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo Lê Đ đã phạm tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, thì thấy: Bị cáo Lê Đ nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật. Song, do bản tính tham lam muốn có tiền tiêu xài mà không phải mất công lao động, bị cáo đã bất chấp pháp luật thực hiện hành vi trộm cắp tài sản. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân mà còn gây mất trật tự trị an, gây tâm lý hoang mang, bất bình trong nhân dân nên cần được xử lý nghiêm minh trước pháp luật nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thì thấy: Bị cáo Lê Đ đã bị kết án về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” chưa được xoá án tích nên trong vụ án này bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “tái phạm”. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự để xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo. Sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã ra đầu thú, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn và bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần được áp dụng để giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo có nhân thân xấu nhiều lần bị xử phạt vi phạm hành chính, trong đó có lần bị xử phạt hành chính chưa hết thời gian để được xem là chưa bị xử phạt hành chính. Do đó, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo và cần thiết phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian để bị cáo cải tạo, sửa chữa sai lầm trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[5] Về trách nhiệm dân sự; tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm:

Trong quá trình điều tra, bị hại Trần Quang T không yêu bị cáo bồi thường thiệt hại. Do đó, Hội đồng xét xử không buộc các bị cáo bồi thường. Tuy nhiên, đối với số tiền 7.000.000 đồng bị cáo bán điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy Note 10+ của bị hại T, là tài sản do bị cáo phạm tội mà có nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

[6] Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra, Cơ quan điều tra đã tạm giữ 01 xe mô tô hiệu SINUDA biển kiểm soát 92F1-X. Sau khi điều tra làm rõ, ngày 13/12/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hội An ban hành quyết định xử lý vật chứng số 28/QĐ trả lại cho chủ sở hữu là có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Bị cáo Lê Đ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Lê Đ phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Lê Đ 02 (Hai) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày bắt tạm giam 29/10/2021.

Về tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuyên:

Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 7.000.000đ (Bảy triệu đồng), bị cáo Lê Đ phải có nghĩa vụ nộp.

Về án phí: Bị cáo Lê Đ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án (20/01/2022). Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án; tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 06/2022/HS-ST

Số hiệu:06/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hội An - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về