Bản án về tội trộm cắp tài sản số 06/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN LẠC, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 06/2021/HS-ST NGÀY 13/04/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Lạc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 04/2021/TLST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 07/2021/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2021 đối với bị cáo:

Bùi Văn H (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 30/5/1991 tại Tân Lạc - Hòa Bình; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Th, xã L, huyện LT, tỉnh Vĩnh Phúc; chỗ ở: Xóm M, xã Ph, huyện T, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn N và bà Bùi Thị D; có vợ là Nguyễn Thị Tr và có 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa có tiền án, tiền sự; bị tạm giữ ngày 27/12/2020 và chuyển tạm giam từ ngày 05/01/2021 cho đến nay. Có mặt.

Các bị hại:

Ông Bùi Văn S, sinh năm 1978; nơi cư trú: Xóm M, xã Ph, huyện T, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

Bà Bùi Thị A, sinh năm 1979; nơi cư trú: Xóm M, xã Ph, huyện T, tỉnh Hòa Bình. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 00 phút ngày 21/12/2020, Bùi Văn H đi bộ từ nhà bố đẻ của mình là ông Bùi Văn N tại xóm M, xã Ph, huyện T, tỉnh Hòa Bình đến nhà ông Bùi Văn S ở cùng xóm. Quan sát thấy nhà ông S đã tắt điện thắp sáng, bên trong chỉ có ánh sáng đèn ngủ. Hiệu phát hiện thấy chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, biển kiểm soát 29X6 - xxxx của gia đình ông S đang dựng ở sân, không khóa cổ. H lén lút trộm cắp chiếc xe mô tô trên rồi dắt ra khỏi cổng, đi theo đường xóm qua chợ Lồ cũ đến gần khu vực bãi đổ rác ở phía sau chợ Lồ mới, giáp với đường bê tông liên xóm Mường Lầm - Mường Lồ và dừng lại. Hiệu tìm một đoạn gỗ dùng cậy bẩy mở cốp xe mô tô. Sau đó, H dùng đèn của điện thoại di động soi bên trong cốp xe tìm thấy có 01 chiếc tô vít. Hiệu dùng tô vít tháo giá kim loại ở trên xe mô tô, bẻ gãy phần cánh yếm, rồi đấu nối dây điện để khởi động xe mô tô. Sau khi khởi động được xe mô tô, H điều khiển xe theo đường bê tông đi ra quốc lộ 6 tìm nơi tiêu thụ. Khi gần đến Trạm Cảnh sát giao thông Tân Lạc, do sợ bị bắt giữ, nên H điều khiển xe mô tô quay lại và rẽ vào sân vận động xã Phong Phú giấu xe mô tô sau nhà vệ sinh của sân vận động xã Phong Phú. Sau đó, H đi bộ về nhà ngủ.

Khoảng 04 giờ 00 phút ngày 22/12/2020, ông Bùi Văn S tỉnh dậy thấy mất xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, biển kiểm soát 29X6 - xxxx nên đã đến nhà ông N kể về việc bị mất xe. Lúc này, H vừa ngủ dậy và nói với ông S “Chú mất thật hay mất đùa đấy”, ông S trả lời mất thật. Sau đó, ông S đi về nhà. Khoảng 23 giờ 00 phút ngày 23/12/2020, H đi bộ ra sân vận động xã Phong Phú để lấy chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29X6 - xxxx. H đã vặn ốc tháo phần ốp nhựa màu đen bọc trên giữa khung và cổ xe rồi vứt ở gần đó. Sau đó, H điều khiển xe mô tô đi ra quốc lộ 6, rồi đi tiếp đến ngã ba Lồ, xã Phong Phú và rẽ phải vào đường đi về phía UBND xã Phong Phú để tìm nơi tiêu thụ. Khi đi qua cầu Mường Lầm, xã Phong Phú, H đã đâm xe mô tô vào cột mốc bên trái và ngã ra đường. H bị xây xát vùng mặt bên trái, xe mô tô bị cong vành trước và bị hỏng một số bộ phận nên không khởi động xe đi tiếp được. H dắt xe mô tô ra sau chợ Lồ mới và bỏ xe ở cạnh bãi rác, giáp với đường bê tông thuộc xóm Mường Lồ, xã Phong Phú rồi đi về nhà. Đến ngày 26/12/2020, H đến Công an huyện Tân Lạc để đầu thú về hành vi của mình đã trộm cắp xe mô tô của ông Bùi Văn Sàu.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 31/KL-HĐĐG, ngày 31/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Lạc kết luận: Giá trị xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, biển kiểm soát 29X6 - xxxx ngay trước thời điểm bị Bùi Văn H chiếm đoạt là 7.000.000đ (Bảy triệu đồng). Giá trị thiệt hại cần sửa chữa, khắc phục sau tai nạn là 3.000.000đ (Ba triệu đồng).

Tại bản cáo trạng số 07/CT-VKS ngày 12/3/2021, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc đã truy tố Bùi Văn H về tội trộm cắp tài sản theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa, bị cáo Bùi Văn H một lần nữa khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng của Viện Kiểm sát đã truy tố. Bị cáo không có ý kiến thắc mắc về nội dung cáo trạng, không kêu oan.

* Ý kiến của những người tham gia phiên tòa được Tòa án triệu tập:

Ý kiến của các bị hại là ông Bùi Văn S, bà Bùi Thị A: Ông S và bà A là vợ chồng. Về việc ngày 21/12/2020, bị cáo Bùi Văn H đã trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, biển kiểm soát 29X6 - xxxx của ông S, bà A đúng như nội dung bản cáo trạng của Viện Kiểm sát đã nêu. Ngày 22/02/2021, ông S, bà A đã được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Lạc trả lại xe mô tô cho ông bà. Về trách nhiệm hình sự, ông S, bà A đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, vì bị cáo là họ hàng, ông S là em trai của bố bị cáo. Về trách nhiệm dân sự, không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại gì.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quyết định truy tố về tội danh và điều luật áp dụng. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn H phạm tội trộm cắp tài sản; xử phạt bị cáo từ 08 (Tám) đến 12 (Mười hai) tháng tù.

- Hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung tiền đối với bị cáo.

- Về vật chứng của vụ án và trách nhiệm dân sự: Đối với xe mô tô biển kiểm soát 29X6 - xxxx của vợ chồng ông Bùi Văn S mà bị cáo đã trộm cắp. Cơ quan điều tra đã thu hồi và trả lại chiếc xe mô tô này cho vợ chồng ông S. Về phía các bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thiệt hại gì, nên không xem xét đến.

* Các ý kiến tranh luận: Bị cáo và các bị hại không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát.

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức việc bị cáo đã trộm cắp xe mô tô là tài sản thuộc sở hữu của vợ chồng ông Bùi Văn S là vi phạm pháp luật, bị cáo rất hối hận. Bị cáo xin Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các chứng cứ, tài liệu do Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện Kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập là hợp pháp. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

[2] Về chứng cứ kết tội bị cáo: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Lạc thu thập hợp pháp gồm: Đơn đề nghị ngày 24/12/2020 của bị hại Bùi Văn S; biên bản khám nghiệm hiện trường; vật chứng thu được là xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, biển kiểm soát 29X6 - xxxx; Kết luận định giá tài sản số 31/KL-HĐĐG ngày 31/12/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tân Lạc; các biên bản ghi lời khai của những người tham gia tố tụng, biên bản hỏi cung bị can trong quá trình điều tra, truy tố; lời khai của bị cáo và các bị hại tại phiên tòa.

Xét thấy lời khai của bị cáo Bùi Văn H trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử phù hợp với lời khai của các bị hại, được chứng minh bằng vật chứng thu được, kết luận định giá tài sản cùng toàn bộ các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã được Hội đồng xét xử xem xét thẩm tra tại phiên toà. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 23 giờ 00 phút ngày 21/12/2020, bị cáo Bùi Văn H đã có hành vi trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, biển kiểm soát 29X6 - xxxx, có giá trị là 7.000.000 (Bảy triệu) đồng của vợ chồng ông Bùi Văn S, bà Bùi Thị A tại xóm M, xã Ph, huyện Tân L, tỉnh Hòa Bình.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi của bị cáo trộm cắp tài sản nêu trên là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Hành vi đó của bị cáo đã có đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng và luận tội của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Tân Lạc đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng. Bị cáo vì muốn có tiền chi tiêu cho bản thân, nên đã thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của người khác để thỏa mãn cho lối sống buông thả của mình.

[4] Về nhân thân: Bị cáo tuy chưa có tiền án, tiền sự, nhưng bị cáo không có nơi cư trú, nơi làm việc cố định. Xác minh của Cơ quan điều tra tại Công an xã Liên Hòa ngày 06/01/2021 cho thấy bị cáo có hộ khẩu thường trú tại thôn Th, xã L, huyện LT, tỉnh Vĩnh Phúc nhưng không có mặt tại địa phương, đi đâu, làm gì không biết. Xác minh của Cơ quan điều tra tại Công an xã Phong Phú ngày 03/01/2021 cho thấy bị cáo có ở cùng với bố đẻ là ông Bùi Văn N tại xóm M, xã Ph, huyện T, tỉnh Hòa Bình và thường đi làm ở một số nơi khác, không rõ làm gì và không rõ địa chỉ.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đầu thú. Mặt khác, về phía các bị hại xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo - Đó là những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội với một thời gian tương xứng, đủ để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và bản thân bị cáo không có tài sản gì, nên đại diện Viện Kiểm sát đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung tiền đối với bị cáo là có căn cứ chấp nhận.

[7] Xử lý vật chứng của vụ án và trách nhiệm dân sự:

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 29X6 - xxxx của vợ chồng ông Bùi Văn S, bà Bùi Thị A mà bị cáo đã trộm cắp. Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu hồi và trả lại chiếc xe mô tô này cùng với các đồ vật của xe mô tô (Gồm: 01 tô vít; 01 giá kim loại trên khung xe; 01 ốp nhựa màu đen bọc giữa khung xe và cổ xe) cho vợ chồng ông S. Tại phiên tòa, ông S, bà A không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thiệt hại gì, nên không xem xét xử lý.

[8] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án, nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố bị cáo Bùi Văn H phạm tội trộm cắp tài sản.

Xử phạt bị cáo Bùi Văn H 08 (Tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (Ngày 27/12/2020).

2. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Bùi Văn H phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo và các bị hại có quyền kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Hoà Bình để xin xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 06/2021/HS-ST

Số hiệu:06/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Lạc - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về