Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUY PH, TỈNH BÌNH ĐỊNH

BẢN ÁN 04/2023/HS-ST NGÀY 06/02/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 06 tháng 02 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuy Ph, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 101/2022/TLST- HS, ngày 06 tháng 12 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 253/2022/QĐXXST- HS ngày 23 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

- Đinh Tuyết S, sinh năm 1997; nơi sinh thành phố N, tỉnh B; nơi cư trú tổ 3, khu vực 1, phường Hải Cảng, thành phố N, tỉnh B; nghề nghiệp không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Ngọc Th và bà Đinh Thị Hoàng A; chồng là anh Trần Công Q; chưa có con; tiền án: Không; tiền sự: Không; Nhân thân: Vào ngày 07 tháng 6 năm 2019 bị Trưởng Công an thành phố N, tỉnh B xử phạt 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) về hành vi “Xâm phạm đến sức khoẻ của người khác”. Bị cáo tại ngoại; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Chị Huỳnh Thị C Th, sinh năm 1990; nơi cư trú: Thôn Vinh Quang 2, xã P, huyện Tuy Ph, tỉnh B; có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Trần Ngọc H, sinh năm 1989; nơi cư trú: Tổ 3, khu vực 5, phường Bùi Thị Xuân, thành phố N, tỉnh B; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Trung H, sinh năm 1988; nơi cư trú: Số nhà 154 Đào Tấn, tổ 11, khu vực 2, phường Nhơn Bình, thành phố N, tỉnh B; vắng mặt.

3. Chị Diệp Th L, sinh năm 1989 nơi cư trú: Số nhà 154 Đào Tấn, tổ 11, khu vực 2, phường Nhơn Bình, thành phố N, tỉnh B; vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Bà Nguyễn Thị N1, sinh năm 1964; nơi cư trú: Thôn Vinh Quang 2, xã P, huyện Tuy Ph, tỉnh B; vắng mặt.

2. Bà Lê Thị H1, sinh năm 1953; nơi cư trú: Thôn Vinh Quang 2, xã P, huyện Tuy Ph, tỉnh B; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 25 tháng 5 năm 2022, bị cáo Đinh Tuyết S tìm anh Trần Ngọc H để đòi số tiền mà anh H đã vay và còn nợ của bị cáo S. Bị cáo gặp anh H đang ở nhà của chị Huỳnh Thị C Th do chị Th thuê tại thôn Vinh Quang 2, xã P, huyện Tuy Ph, tỉnh B. Lúc này bị cáo S đòi tiền nhưng anh H không trả nên giữa bị cáo và anh H có xảy ra kình cãi với nhau; anh H khép cửa nhà lại rồi bỏ đi nơi khác chỉ còn một mình bị cáo đứng trước nhà. Tại thời điểm này, bị cáo nảy sinh ý định trộm cắp các tài sản trong nhà anh H để trừ đi số tiền mà anh H còn nợ của bị cáo nên bị cáo gọi điện thoại nhờ anh Nguyễn Trung H thuê một chiếc xe ô tô tải đến nhà anh H để chở các tài sản mà bị cáo chiếm đoạt. Anh H đồng ý nên đến khu vực Bến xe N thuê một xe ô tô tải do một người nam nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch điều khiển cùng đi với anh H đến nhà của anh H để chở các tài sản mà bị cáo chiếm đoạt. Khi anh H và người nam điều khiển xe ô tô tải đến nhà anh H thì bị cáo S bảo anh H và người nam điều khiển xe ô tô tải cùng với bị cáo khiêng một tủ lạnh hiệu Samsung và một máy quạt nước hiệu Raika thuộc quyền sở hữu của chị Huỳnh Thị C Th đang để trong nhà trọ lên xe ô tô tải để chở về phòng trọ của bị cáo S đang thuê tại số nhà 154 Đào Tấn, tổ 11, khu vực 2, phường Nhơn Bình, thành phố N, tỉnh B. Sau khi trộm cắp những tài sản trên, bị cáo S nhờ chị Diệp Th L liên hệ bán tủ lạnh với số tiền 2.500.000 đồng và bán máy quạt nước với số tiền 500.000 đồng cho một người phụ nữ tên Ngân nhưng không xác định được cụ thể nhân thân, lai lịch.

Theo Bản kết luận định giá tài sản số 190/KL-HĐĐGTS ngày 29/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Tuy Ph kết luận một tủ lạnh hiệu Samsung Inverter, màu đen; kiểu tủ: 02 cánh; dung tích tổng 243 lít; dung tích sử dụng 236 lít; chất liệu cửa tủ lạnh: kim loại sơn bóng giả gương; kích thước: cao 154,5cm x rộng 55,5cm x sâu 63,7cm x nặng 46,5kg có giá trị 5.300.000 đồng. Một máy quạt hơi nước hiệu Raika; màu Trắng Xanh đậm; kích thước: Cao 101cm x rộng 60cm x sâu 40cm có giá trị 3.200.000 đồng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Ph đã xử lý vật chứng trả lại tủ lạnh hiệu Samsung và máy quạt hơi nước hiệu Raika nêu trên cho chị Huỳnh Thị C Th; chị Th không yêu cầu bồi thường thiệt hại.

Tại bản Cáo trạng số 01/CT-VKS-TP ngày 01 tháng 12 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Ph, tỉnh B truy tố bị cáo Đinh Tuyết S về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Ph, tỉnh B.

Đối với anh Nguyễn Trung H và người nam điều khiển xe ô tô tải giúp bị cáo Đinh Tuyết S khiêng tài sản mà bị cáo S trộm cắp trong nhà của chị Th lên xe ô tô tải để chở về nhà trọ của bị cáo S nhưng anh H và người nam điều khiển xe ô tô tải không biết các tài sản này bị cáo S trộm cắp của chị Th nên anh H và người nam điều khiển xe ô tô tải không đồng phạm với bị cáo Đinh Tuyết S về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đối với chị Diệp Th L là người giúp bị cáo S bán các tài sản mà bị cáo trộm cắp trong nhà của chị Th nhưng chị L không biết các tài sản trên do bị cáo S trộm cắp mà có nên hành vi của chị L không cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Ph, tỉnh B đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đinh Tuyết S phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015; đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; khoản 3 Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Đinh Tuyết S với mức hình phạt từ 04 tháng đến 06 tháng tù.

Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại chị Huỳnh Thị C Th không yêu cầu gì nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

Về hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Bị cáo Đinh Tuyết S nói lời sau cùng: Bị cáo đã biết lỗi của bị cáo, bị cáo không dám tái phạm, xin Tòa án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuy Ph, tỉnh B; Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Ph, tỉnh B; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Luận tội của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Ph, tỉnh B tại phiên tòa căn cứ vào các chứng cứ mà Cơ quan điều tra Công an huyện Tuy Ph, tỉnh B đã thu thập và đã được kiểm tra tại phiên tòa để xác định với mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác để bán lấy tiền trừ đi số tiền mà anh Trần Ngọc H còn nợ của bị cáo Đinh Tuyết S nên ngày 25 tháng 5 năm 2022, bị cáo Đinh Tuyết S thực hiện hành vi trộm cắp tài sản một tủ lạnh hiệu Samsung và một máy quạt hơi nước hiệu Raika của chị Huỳnh Thị C Th đang để tại nhà trọ của chị Th tại địa chỉ thôn Vinh Quang 2, xã P huyện Tuy Ph, tỉnh B.

[3] Bị cáo Đinh Tuyết S không tranh luận gì với Kiểm sát viên và cũng không đưa ra chứng cứ nào để bào chữa cho hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuy Ph đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và phù hợp với những chứng cứ đã thu thập nên lời khai nhận tội của bị cáo là có căn cứ.

[4] Xét tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Đinh Tuyết S là người có khả năng nhận thức được hành vi xâm phạm đến tài sản của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội và nhận thức được hậu quả của hành vi đó sẽ gây thiệt hại đến tài sản của người khác. Nhận thức được như vậy nhưng vì bị cáo muốn chiếm đoạt tài sản của người khác để bán lấy tiền trừ đi số tiền mà anh Trần Ngọc H còn nợ của bị cáo nên bị cáo Đinh Tuyết S thực hiện hành vi trộm cắp tài sản một tủ lạnh hiệu Samsung và một máy quạt hơi nước hiệu Raika của chị Huỳnh Thị C Th đang để tại nhà trọ của chị Th. Tài sản mà bị cáo trộm cắp có giá trị 8.500.000 đồng nên hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[5] Xét tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo thực hiện hành vi cố ý xâm phạm đến tài sản của người khác; hành vi của bị cáo thực hiện gây mất an ninh, trật tự nơi xảy ra vụ án.

[6] Với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện và xét thấy bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau khi phạm tội, bị cáo đã khắc phục toàn bộ hậu quả; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy bị cáo có nhân thân không tốt nhưng lần phạm tội này bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; bị cáo có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng; bị cáo có khả năng tự cải tạo và nếu không bắt bị cáo đi chấp hành hình phạt tù thì không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015, không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù mà cho bị cáo hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo cũng có thể giáo dục bị cáo có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa bị cáo phạm tội mới; giáo dục bị cáo tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[7] Xét về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tuy Ph đã ra Quyết định xử lý vật chứng đã trả lại tài sản là tủ lạnh hiệu Samsung và máy quạt hơi nước hiệu Raika cho bị hại chị Huỳnh Thị C Th. Chị Huỳnh Thị C Th không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

[8] Xét về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 “Người phạm tội có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”, nhưng xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

[9] Xét về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/PL- UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Đinh Tuyết S phải chịu số tiền 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

[10] Đối với anh Nguyễn Trung H và người nam điều khiển xe ô tô tải giúp bị cáo Đinh Tuyết S khiêng tài sản mà bị cáo S trộm cắp trong nhà của chị Th lên xe ô tô tải để chở về nhà trọ của bị cáo S nhưng anh H và người nam điều khiển xe ô tô tải không biết các tài sản này bị cáo S trộm cắp của chị Th nên anh H và người nam điều khiển xe ô tô tải không đồng phạm với bị cáo Đinh Tuyết S về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[11] Đối với chị Diệp Th L là người giúp bị cáo S bán các tài sản mà bị cáo trộm cắp trong nhà của chị Th nhưng chị L không biết các tài sản trên do bị cáo S trộm cắp mà có nên hành vi của chị L không cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại Điều 323 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51;

Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/PL-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đinh Tuyết S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Đinh Tuyết S 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Một) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 06 tháng 02 năm 2023).

Giao bị cáo Đinh Tuyết S cho Ủy ban nhân dân phường Hải Cảng, thành phố N, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp bị cáo Đinh Tuyết S thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án hình sự năm 2019.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Đinh Tuyết S cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Đinh Tuyết S phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

3. Về trách nhiệm bồi thường thiệt hại: Bị hại chị Huỳnh Thị C Th đã nhận lại tài sản mà bị cáo trộm cắp; chị Huỳnh Thị C Th không yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét trách nhiệm bồi thường thiệt hại.

4. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

5. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Đinh Tuyết S phải chịu số tiền 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào ngân sách Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 06 tháng 02 năm 2023). Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt, niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2023/HS-ST

Số hiệu:04/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuy Phước - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về