Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN PHONG, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 04/2023/HS-ST NGÀY 12/01/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 12 tháng 01 năm 2023. Tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 159/2022/TLST-HS, ngày 02 tháng 12 năm 2022. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 182/2022/QĐXXST-HS, ngày 30 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị Khánh D, sinh năm 2003; HKTT: thôn T, xã T, huyện YP, tỉnh B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Thế Ng; Và bà Nguyễn Thị D; Gia đình có 03 anh chị em, bản thân là thứ hai; Chồng, con chưa có; Tiền án; Tiền sự: Không.

Tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/11/2022 đến nay có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại:

Anh Nguyễn Hải N, sinh ngày 06/02/2004 (xin vắng mặt). Trú tại: thôn A, xã Y, huyện YP, tỉnh B.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị Ng, sinh 1995; Anh Nguyễn Hữu B, sinh 1992 (xin vắng mặt).

Trú tại: thôn M, xã L, huyện YP, tỉnh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau.

Nguyễn Thị Khánh D, sinh năm 2003, trú tại: thôn T, xã T, huyện YP, tỉnh B hiện thuê trọ tại tầng 2, phòng 202 nhà bà Nguyễn Thị Y ở thôn Ấp Đồn, xã Yên Trung, huyện Y. Khoảng 6 giờ ngày 11/11/2022, D đi từ phòng trọ xuống cầu thang sân tầng 1 thì thấy 01 chiếc xe máy điện màu đen không biển kiểm soát (BKS) đang dựng ở chân cầu thang. Do cần tiền tiêu sài cá nhân nên D nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe máy điện này. Lúc này, khu trọ có người đi lại nên D chưa trộm cắp được. Sau đó, D lên mạng xã hội Facebook thấy tài khoản tên “N” của chị Nguyễn Thị Ng, sinh năm 1995, trú tại thôn Mẫn Xá, xã Long Châu, huyện Y có đăng bài mua, bán xe máy điện cũ. D dùng tài khoản Facebook tên “K” của mình nhắn tin qua mạng Facebook cho Ng hỏi bán xe máy điện cũ đã mất chìa khóa. Đến sáng ngày 12/11/2022, D dùng điện thoại OPPO A37, màu đồng gắn sim số 0388.444.xxx của mình chụp ảnh chiếc xe máy điện đang để ở sân tầng 1 rồi gửi ảnh cùng số điện thoại cho chị Ng. Chị Ng đồng ý mua chiếc xe với giá 2.000.000 đồng.

Sau đó, chị bảo chồng là anh Nguyễn Hữu B, sinh năm 1992 gọi điện cho D để mua chiếc xe. Đến khoảng 10 giờ sáng cùng ngày, D ở phòng tầng 2 của mình quan sát khu trọ không có người, liền đi từ phòng xuống đến chỗ để xe máy điện ở chân cầu thang tầng 1 (xe không khóa cổ, không khóa càng) rồi dắt chiếc xe máy điện ra ngoài cổng. Khi dắt đến khu chợ Ấp Đồn, D dừng lại và gọi điện cho anh B đến mua xe. Khoảng 20 phút sau, anh B đến, kiểm tra xe rồi thỏa thuận mua chiếc xe với giá 1.700.000 đồng. D đồng ý nhận tiền và giao chiếc xe cho anh B. Số tiền bán chiếc xe máy điện D đã tiêu sài cá nhân hết.

Sau khi phát hiện bị mất tài sản, ngày 13/11/2022, anh Nguyễn Hải N đã đến Công an xã Yên Trung trình báo vụ việc. Cùng ngày, nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình, Nguyễn Thị Khánh D đã ra đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bản thân. Ngay sau khi tiếp nhận, Công an xã Yên Trung đã chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y để giải quyết theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37, màu đồng, không có sim, số IMEL1: 865266035087395, số IMEL2: 865266035087387 do D giao nộp; 01 chiếc xe máy điện màu đen, nhãn hiệu VINATHAI, loại xe Xmen, không BKS, do anh B giao nộp.

Ngày 14/11/2022 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Y ra Yêu cầu định giá tài sản số 90, trưng cầu hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Y định giá đối với chiếc xe máy điện mà D trộm cắp.

Tại bản Kết luận định giá tài sản số 91/KL-HĐĐGTS ngày 15 tháng 11 năm 2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Y kết luận: “01 xe máy điện nhãn hiệu VINATHAI, loại xe XMEN, màu đen, BKS MĐ4-028.93, số máy 800160800704, số khung EKL7GN500704 đã qua sử dụng tại thời điểm định giá có trị giá 4.000.000 đồng”.

Với nội dung trên tại bản cáo trạng số 152 ngày 29 tháng 11 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Y đã truy tố Nguyễn Thị Khánh D về tội " Trộm cắp tài sản " theo khoản 1 Điều 173 BLHS.

Tại phiên toà hôm nay bị cáo Nguyễn Thị Khánh D khai nhận ngày 12/11/2022, tại khu nhà trọ của gia đình bà Yến ở thôn Ấp Đồn, xã Yên Trung bị cáo đã lợi dụng sơ hở để trộm cắp của anh Nguyễn Hải N 01 chiếc xe máy điện màu đen nhãn hiệu VINATHAI. Sau khi trộm cắp được tài sản bị cáo mang bán cho anh Nguyễn Hữu Bình được 1.700.000 đồng, số tiền này bị cáo đã tiêu sài cá nhân hết. Bị cáo thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo về tội “ Trộm cắp tài sản” là đúng.

Trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y thực hành quyền công tố tại phiên toà sau khi phân tích đánh giá chứng cứ, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra cho xã hội cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã kết luận về vụ án và giữ nguyên quan điểm như đã truy tố và đề nghị HĐXX.

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Khánh D phạm tội “ Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 BLHS, Điều 328 BLTTHS xử phạt bị cáo từ 08 đến 10 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 16 đến 20 tháng.

Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo nếu không bị giam, giữ về một tội phạm nào khác.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét do tài sản đã được thu hồi trả cho người bị hại và người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS.

Tịch th sung công quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO A37, màu đồng, không có sim, số IMEL 1: 865266035087395; Số IMEL 2: 86566035087387.

Bị cáo nhận tội, không có ý kiến gì với phần kết luận và không tham gia tranh luận với đại diện Viện kiểm sát, bị cáo đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau.

[ 1 ] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[ 2 ] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Nguyễn Thị Khánh D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận của bị cáo là phù hợp với không gian, thời gian, đơn trình báo và lời trình bày của người bị hại, lời khai của người làm chứng, tang vật đã thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ được công khai và tranh tụng tại phiên tòa thấy đã có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Nguyễn Thị Khánh D phạm tội “ Trộm cắp tài sản ”. Tội phạm được quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS đúng như bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố.

[ 3 ] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trực tiếp tới quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi phạm tội của bị cáo chẳng những gây thiệt hại về vật chất cho anh Nguyễn Hải N mà còn gây mất trật tự trị an ở địa phương, tạo tâm lý hoang mang lo sợ cho quần chúng nhân dân. Xét thấy cần xử lý nghiêm bị cáo theo quy định của Bộ luật hình sự mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[ 4 ] Xét nhân thân và thái độ của bị cáo HĐXX nhận thấy. Bị cáo xuất thân từ gia đình con em lao động, được gia đình nuôi cho ăn học đến lớp 12/12 nhưng bị cáo lại không coi đây là môi trường giáo dục tốt để tu dưỡng rèn luyện bản thân. Với bản chất thích ăn chơi, lười lao động và để có tiền nhằm thỏa mãn cho những nhu cầu ích kỷ của bản thân ngày 12/11/2022, tại khu nhà trọ của gia đình bà Y ở thôn Ấp Đồn, xã Yên Trung bị cáo đã lợi dụng sơ hở để trộm cắp của anh Nguyễn Hải N 01 chiếc xe máy điện trị giá 4.000.000 đồng. Hành vi phạm tội của bị cáo chẳng những gây thiệt hại về chất cho anh N mà còn thể hiện ý thức coi thường pháp luật, coi thường tài sản của người khác. Xét thấy cần có một mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo. Song khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt vì xét thấy sau khi phạm tội đã đến Công an đầu thú, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay đã có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Xét thấy bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 và không có tình tiết tăng năng, bị cáo có nới cư trú rõ ràng nên xét thấy không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà cho bị cáo được cải tạo, giáo dục tại địa phương cũng đủ điều kiện răn đe, giáo dục đối với bị cáo và thể hiện chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước.

[ 5 ] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là anh Nguyễn Hải N có đơn xin được vắng mặt tại phiên tòa. Theo đơn đề nghị và lời khai của anh N thể hiện ngày 12/11/2022 anh bị mất 01 chiếc xem máy điện màu đen không có biểm kiểm soát. Quá trình điều tra anh được Cơ quan điều tra trả lại tài sản bị mất, anh đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm, anh cũng có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Xét thấy đây là sự tự nguyện của người bị hại do vậy không đặt ra xem xét.

[ 6 ] Đối với vợ chồng anh B, chị Ng là người đã mua của bị cáo chiếc xe máy điện mà bị cáo trộm cắp của anh N ngày 12/11/2022. Song xét thấy khi mua anh B, chị Ng không biết đây là tài sản do bị cáp phạm tội mà có. Ngay sau khi biết đây là vật chứng của vụ án anh B, chị Ng đã tự nguyện giao nộp chiếc xem cho Cơ quan điều tra. Cơ quan điều không xử lý đối với anh B, chị Ng là phù hợp.

Đối với số tiền 1.700.000 đồng, anh B, chị Ng trả cho bị cáo khi mua xe nay anh chị không yêu cầu bị cáo phải hoàn trả do vậy không đặt ra xem xét.

[ 7 ] Về vật chứng:

Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO A37, màu đồng, không có sim, số IMEL 1: 865266035087395; Số IMEL 2: 86566035087387 của bị cáo vì xét thấy bị cáo sử dụng chiếc điện thoại này để giao dịch tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Khánh D phạm tội " Trộm cắp tài sản ".

Áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 BLHS, Điều 328 BLTTHS.

Xử phạt: Nguyễn Thị Khánh D 08 (tám) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thửa thách là 16 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 12/01/2023.

Trả tự do ngay tại phiên tòa cho bị cáo nếu không bị giam, giữ về một tội phạm nào khác.

Giao bị cáo cho UBND xã Thụy Hòa, huyện Y, tỉnh Bắc N giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xét do tài sản đã được thu hồi trả cho người bị hại và người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS; Điều 106 BLTTHS.

Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO A37, màu đồng, không có sim, số IMEL 1: 865266035087395; Số IMEL 2: 86566035087387.

Về án phí: Áp dụng Điều 136 BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về án lệ phí.

Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được kết quả bản án hoặc ngày niêm yết kết quả bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2023/HS-ST

Số hiệu:04/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về