Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁC ÁI, TỈNH NINH THUẬN

BẢN ÁN 04/2023/HS-ST NGÀY 24/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 5 năm 2023, tại điểm cầu Trung tâm Tòa án nhân dân huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận và điểm cầu thành phần Nhà tạm giữ Công an huyện Bác Ái mở phiên tòa trực tuyến xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 02/2023/TLST-HS ngày 15 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:

BÙI VĂN L, sinh năm 1985 tại tỉnh Đồng Nai.

Nơi cư trú: Ấp 1, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bùi Văn L1 (đã chết) và bà Hồ Thị L2; Có vợ Nguyễn Thị Mỹ L3 (đã ly hôn) và có 01 người con sinh năm 2008; Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân:

- Bản án hình sự sơ thẩm số 26/HSST ngày 18/5/2004 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xử phạt Bùi Văn L 24 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Bản án hình sự sơ thẩm số 182/2006/HSST ngày 27/11/2006 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xử phạt Bùi Văn L 14 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Bản án hình sự sơ thẩm số 119/2011/HSST ngày 30/8/2011 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xử phạt Bùi Văn L 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Bản án hình sự sơ thẩm số 110/2013/HSST ngày 11/9/2013 của Tòa án nhân dân huyện Nhơn Trạch, tỉnh Đồng Nai xử phạt Bùi Văn L 08 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

- Bản án hình sự sơ thẩm số 445/2015/HSST ngày 10/8/2015 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt Bùi Văn L 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị bắt, tạm giam vào ngày 30/12/2022, đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận.

(Bị cáo có mặt tại phiên tòa) - Bị hại: Chị Huỳnh Thị Kim H, sinh năm 1995. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: thôn K, xã S, huyện C, tỉnh Khánh Hòa.

Chỗ ở hiện nay: thôn A, xã X, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

- Nguyên đơn dân sự: Trường Mẫu giáo A.

Địa chỉ: thôn M, xã P, huyện B, tỉnh Ninh Thuận.

- Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự:

Chị Tạ Thị Thanh T, sinh năm 1981. Chức vụ: Hiệu trưởng Trường Mẫu giáo A. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: thôn M, xã P, huyện B, tỉnh Ninh Thuận.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Chị Chamaléa Thị H1, sinh năm 1974. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: thôn M, xã P, huyện B, tỉnh Ninh Thuận.

- Người làm chứng:

1/ Chị Chamaléa Thị L4, sinh năm 1985. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: thôn M, xã P, huyện B, tỉnh Ninh Thuận.

2/ Chị Ngư Thị Hồng P, sinh năm 1992. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: thôn P, xã P, huyện N, tỉnh Ninh Thuận.

3/ Anh Lê Tấn T2, sinh năm 1989. (Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt) Nơi cư trú: thôn C, xã P, huyện B, tỉnh Ninh Thuận.

4/ Bà Lê Thị H2, sinh năm 1958. (Vắng mặt) Nơi cư trú: thôn H, xã C, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa.

- Người tiến hành tố khác có mặt tại điểm cầu thành phần:

1/ Ông Nguyễn Văn H - Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bác Ái.

2/ Ông Sẩm A T - Cán bộ Tòa án nhân dân huyện Bác Ái.

3/ Ông Lê Quang H - Phó trưởng Nhà tạm giữ Công an huyện Bác Ái.

4/ Ông PaXây N - Cán bộ Nhà tạm giữ Công an huyện Bác Ái.

5/ Ông Nguyễn Hữu K - Cán bộ Nhà tạm giữ Công an huyện Bác Ái.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 6/2020, Bùi Văn L đến ở nhờ nhà chị Chamaléa Thị H1.

Khoảng 22 giờ ngày 05/11/2020, Bùi Văn L và chị H1 cãi nhau thì Bùi Văn L lấy cây rựa (loại dao dài khoảng 50-60cm cán tre, lưỡi bằng kim loại mũi cong) của chị Chamaléa Thị H1 đi ra khỏi nhà, khi đi trên đường thôn Ma Nai đoạn đường trước Trường Mẫu giáo A, Bùi Văn L nhìn thấy cổng Trường đóng nhưng không khoá nên mở cổng đi vào Trường nhằm tìm kiếm chỗ ngủ. Tại dãy lớp học, Bùi Văn L quan sát xung quanh thấy Trường không có người trông coi và nhìn qua cửa sổ phòng học lớp mẫu giáo 4-5 tuổi, liền nảy sinh ý định trộm cắp tài sản có trong phòng. Để thực hiện ý đồ của mình, sẵn có cây rựa mang theo Bùi Văn L đến chỗ cửa chính dùng cây rựa cạy bung móc tai khóa, mở cửa đi vào phòng lấy cái máy tính xách tay, nhãn hiệu Sony Vaio, màu trắng được bỏ trong ba lô màu xám và cái loa nhãn hiệu BoBos FX-IX, màu đen, rồi nhanh chóng đi ra khỏi Trường Mẫu giáo A. Sau đó, Bùi Văn L gọi điện thoại cho Lê Tấn T2 (là bạn của L) dùng xe môtô đến đón. Để tránh việc bị T2 phát hiện L đã trộm cắp tài sản, L nói với T2 cái máy tính xách tay và cái loa là của L mua từ khi ở nhà chị H1, nay chị H1 “đuổi ra khỏi nhà” L mang theo và nhờ T2 tìm kiếm chỗ gửi. Nghe vậy, T2 dùng xe môtô chở L đến nhà bà Lê Thị H2 (mẹ của T2) ở thôn H, xã C, thành phố C, tỉnh Khánh Hòa gửi số tài sản này và chở L về nhà T2 tại thôn C, xã P, huyện B. Đến ngày 08/11/2020 T2 dùng xe mô tô chở L đến nhà bạn của L ở thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, sau đó L đi về tỉnh Đồng Nai. Sau khi biết máy tính xách tay, cái loa trên là do L trộm cắp, T2 đã đến nhà bà H2 lấy số tài sản này giao nộp cho Cơ quan Công an huyện Bác Ái và trình bày sự việc.

Quá trình điều tra đã xác định cái loa, nhãn hiệu BoBos FX-IX, màu đen là của Trường Mẫu giáo A; Cái máy tính xách tay, nhãn hiệu Sony Vaio, màu trắng được bỏ trong cái ba lô màu xám của chị Huỳnh Thị Kim H (giáo viên Trường Mẫu giáo A).

Kết luận định giá tài sản số 09/KLĐG ngày 17/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bác Ái kết luận: Một máy tính xách tay, nhãn hiệu Sony Vaio, màu trắng, được mua vào năm 2015 trị giá 3.600.000 đồng; Một cái loa nhãn hiệu BoBos FX-IX, màu đen, được mua vào ngày 27/12/2017 trị giá 2.800.000 đồng. Tổng trị giá tài sản là 6.400.000 đồng.

Cáo trạng số 02/CT-VKSBA-HS ngày 14 tháng 3 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bác Ái truy tố bị cáo Bùi Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Bùi Văn L đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Tại phiên tòa, không ai có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận định giá tài sản số 09/KLĐG ngày 17/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bác Ái.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bác Ái giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Bùi Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” và kết luận hành vi phạm tội của Bùi Văn L thuộc khoản 1 nhẹ hơn khoản đã truy tố. Bởi vì theo quy định của pháp luật Thi hành án dân sự thì việc bồi thường về trách nhiệm dân sự của Bùi Văn L đối với Bản án số 26/HSST ngày 18/5/2004 đã hết thời hiệu thi hành, áp dụng nguyên tắc có lợi Bùi Văn L được xoá án tích bản án này theo quy định tại Điều 70; điểm b, khoản 1 Điều 71; điểm a, khoản 2, khoản 3 Điều 72 Bộ luật Hình sự, 04 bản án sau Bùi Văn L đương nhiên được xoá án tích theo quy định. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: Khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn L từ 12 (mười hai) đến 15 (mười lăm) tháng tù.

* Về trách nhiệm dân sự: Chị Huỳnh Thị Kim H đã nhận lại máy tính xách tay bị mất; Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự: Chị Tạ Thị Thanh T đã nhận lại cái loa nhãn hiệu BoBos FX-IX bị mất trộm. Cái ba lô màu xám đựng máy tính xách tay của chị H, khi đem giao nộp cho Cơ quan Công an huyện Bác Ái, anh Lê Tấn T2 đã làm rơi nhưng không xác định được địa điểm, nên Cơ quan điều tra không thu hồi được. Chị H và chị T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên không đề cập tới.

* Về xử lý vật chứng: Cây rựa (dao dài khoảng 50-60cm, cán tre, lưỡi bằng kim loại mũi cong) Bùi Văn L đã vứt sau khi sử dụng vào việc phạm tội, nhưng không xác định được địa điểm, Cơ quan điều tra đã tổ chức truy tìm nhưng không thu hồi được. Cây rựa này của chị Chamaléa Thị H1, chị H1 không yêu cầu Bùi Văn L hoàn trả và bồi thường giá trị cây rựa nên không xem xét giải quyết.

Anh Lê Tấn T2 chở Bùi Văn L đi gửi cái máy tính xách tay và cái loa nhưng không biết tài sản do Bùi Văn L phạm tội mà có. Vì vậy, Cơ quan điều tra không xem xét xử lý anh T2.

Những người tham gia tố tụng không ai có ý kiến tranh luận gì đối với Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bác Ái.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bác Ái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bác Ái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Khoảng 23 giờ ngày 05/11/2020, tại Trường Mẫu giáo A thuộc thôn M, xã P, huyện B, tỉnh Ninh Thuận, Bùi Văn L nhìn thấy cổng Trường không khoá nên mở cổng đi vào Trường để tìm chỗ ngủ. Tại dãy lớp học, Bùi Văn L quan sát thấy Trường không có người trông coi và nhìn qua cửa sổ phòng học lớp mẫu giáo 4-5 tuổi thấy có tài sản, liền nảy sinh ý định trộm cắp tài sản có trong phòng. Để thực hiện ý đồ của mình, sẵn có cây rựa mang theo Bùi Văn L đến chỗ cửa chính dùng cây rựa cạy bung móc tai khóa của ổ khoá, mở cửa đi vào phòng lấy trộm được cái máy tính xách tay, nhãn hiệu Sony Vaio, màu trắng của giáo viên Huỳnh Thị Kim H và cái loa nhãn hiệu BoBos FX- IX, màu đen của Trường Mẫu giáo A.

Tại Kết luận định giá tài sản số 09/KL-HĐĐGTS ngày 17/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bác Ái kết luận: 01 (Một) máy tính xách tay, nhãn hiệu Sony Vaio, màu trắng, được mua vào năm 2015 có giá trị 3.600.000 đồng; 01 (Một) cái loa nhãn hiệu BoBos FX-IX, màu đen, được mua vào ngày 27/12/2017 có giá trị 2.800.000 đồng. Tổng trị giá tài sản là 6.400.000 đồng.

Từ năm 2004 đến 2015, Bùi Văn L bị Tòa án kết án bằng 05 bản án đã có hiệu lực pháp luật. Bản án hình sự sơ thẩm số 26/HSST ngày 18/5/2004 của Tòa án nhân dân huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai xử phạt Bùi Văn L 24 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, thời hạn chấp hành án tính từ ngày tạm giam 08/01/2004. Ngoài ra, Bản án tuyên buộc bị cáo L còn phải chịu 50.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm; chịu 50.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm; nộp sung công quỹ 740.000 đồng và phải bồi thường cho bà Nguyễn Thị Thuận 333.333 đồng. Ngày 08/10/2005, Bùi Văn L đã chấp hành xong hình phạt tù, đồng thời đã nộp án phí hình sự sơ thẩm, dân sự sơ thẩm và khoản nộp sung công quỹ; đối với phần bồi thường cho bà Nguyễn Thị Thuận thì Bùi Văn L chưa thực hiện vì bà Thuận không có đơn yêu cầu. Theo quy định tại khoản 5 Điều 3, điểm c Điều 31 Luật Thi hành án Dân sự, do thời hiệu yêu cầu thi hành án đối với phần bồi thường trách nhiệm dân sự đã hết (05 năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật) đương sự đã mất quyền yêu cầu Cơ quan Thi hành án Dân sự tổ chức thi hành án, Cơ quan Thi hành án Dân sự từ chối yêu cầu thi hành án khi được yêu cầu. Như vậy theo Bản án số 26/2004/HSST nói trên, Bùi Văn L phải bồi thường trách nhiệm dân sự cho bà Nguyễn Thị Thuận số tiền 333.333 đồng nhưng bà Thuận không có đơn yêu cầu, tính đến ngày 05/11/2020 lần bị cáo L trộm cắp tài sản thì thời hiệu yêu yêu cầu thi hành án của bà Thuận đã hết nên bị cáo L không phải thực hiện nghĩa vụ và đương nhiên được xóa án tích.

Đối với 04 bản án còn lại Bùi Văn L đã chấp hành xong hình phạt tù, chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn 02 năm kể từ ngày chấp hành xong nên đương nhiên được xóa án tích quy định tại Điều 70 của Bộ luật Hình sự.

Cáo trạng số: 02/CT-VKSBA-HS ngày 14/3/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bác Ái xác định Bùi Văn L có 05 tiền án chưa được xóa án tích nên đã truy tố Bùi Văn L về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bác Ái kết luận Bùi Văn L đã được xóa án tích, không còn tiền án, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Bùi Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là phù hợp.

[3] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Bi cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nên phải xử phạt bị cáo mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Tài sản mà bị cáo chiếm đoạt có giá trị 6.400.000 đồng và đã được Cơ quan công an huyện Bác Ái thu hồi trả lại cho chủ sở hữu. Hội đồng xét xử xét thấy cần phải cho bị cáo hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ “phạm tội gây thiệt hại không lớn” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự so với đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bác Ái tại phiên tòa mới phù hợp.

[5] Về quyết định hình phạt: Bị cáo có nhân thân xấu, biết việc trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật phải bị xử lý nhưng Bùi Văn L vẫn tiếp tục phạm tội, chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật. Vì vậy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bác Ái để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[6] Anh Lê Tấn T2 chở Bùi Văn L đi gửi cái máy tính xách tay và cái loa nhưng không biết tài sản này do Bùi Văn L phạm tội mà có, sau khi biết đã khai báo và giao nộp cho Cơ quan chức năng. Vì vậy, Cơ quan điều tra không xem xét xử lý anh T2 là có căn cứ.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Chị Huỳnh Thị Kim H đã nhận lại máy tính xách tay bị mất; Người đại diện hợp pháp của nguyên đơn dân sự: Chị Tạ Thị Thanh T đã nhận lại cái loa nhãn hiệu BoBos FX-IX bị mất trộm. Cái ba lô màu xám đựng máy tính xách tay của chị H, khi đem giao nộp cho Cơ quan Công an huyện Bác Ái, anh Lê Tấn T2 đã làm rơi nhưng không xác định được địa điểm nên Cơ quan điều tra không thu hồi được. Chị H và chị T không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm nên không đề cập tới.

[8] Về xử lý vật chứng: Cây rựa (dao dài khoảng 50-60cm, cán tre, lưỡi bằng kim loại mũi cong) là tài sản của chị Chamaléa Thị H1, sau khi sử dụng làm công cụ phạm tội Bùi Văn L đã vứt bỏ, Cơ quan điều tra đã tổ chức truy tìm nhưng không thu hồi được và chị H1 cũng không yêu cầu gì không xét đến.

[9] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Bùi Văn L phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Bùi Văn L phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng: khoản 1 Điều 173; các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Bùi Văn L 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt, tạm giam 30/12/2022.

2. Về án phí: Buộc bị cáo Bùi Văn L phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền đã nộp là 200.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0000019 ngày 09/01/2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bác Ái, tỉnh Ninh Thuận.

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

69
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2023/HS-ST

Số hiệu:04/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bác ái - Ninh Thuận
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/05/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về