TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
BẢN ÁN 04/2021/HS-ST NGÀY 03/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 03 tháng 3 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2021/TLST-HS, ngày 13 tháng 01 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2021/QĐXXST-HS, ngày 09 tháng 02 năm 2021 đối với bị cáo:
Lê Thanh S (tên gọi khác: S Nhỏ), sinh ngày 15/06/2002; Nơi sinh: Hà Tiên - Kiên Giang; Nghề nghiệp: Không; Nơi đăng ký HKTT và nơi ở hiện nay: Tổ 04, ấp R, xã Th, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang; trình độ học vấn: 06/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Tấn Đ và bà Nguyễn Thị H; bị cáo chưa có vợ con; anh chị em ruột có 02 người lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 2007; tiền án: không; tiền sự: Có 01 tiền sự về hành vi “Trộm cắp tài sản”, bị Công an xã Th xử phạt hành chính theo Quyết định số 716/QĐ-XPVPHC ngày 30/3/2020 với số tiền 1.250.000 đồng (trong đó hành vi trộm cắp tài sản là 750.000 đồng và hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là 500.000 đồng); bị cáo hiện đang tại ngoại. (có mặt).
Bị hại:
- Ông Trần Minh Ch, sinh năm 1984. Địa chỉ: Tổ 04, ấp R, xã Th, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. (vắng mặt)
- Ông Phạm Văn S2, sinh năm 1979. Địa chỉ: Tổ 05, ấp R, xã Th, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. (có đơn xin xét xử vắng mặt)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1978. Địa chỉ: Tổ 04, ấp R, xã Th, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. (có mặt)
Người làm chứng: Ông Trịnh Hoàng N, sinh năm 1999. Địa chỉ: Tổ 04, ấp R, xã Th, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào khoảng 04 giờ ngày 19/9/2020, Lê Thanh S điều khiển xe máy nhãn hiệu HONDA (Chaly), biển kiểm soát số 68HA-8230 chở Trịnh Hoàng N đến khu vực nhà ông Phạm Văn S2, sinh năm 1979 tại ấp R, xã Th, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Thấy trong nhà không có người nên Trịnh Hoàng N dùng hai tay nâng cánh cửa chính bên phải rời khỏi bản lề, N và S đột nhập vào bên trong, phát hiện 03 con gà trống đá 01 con gà trống màu lông trắng với khối lượng là 2,8 kg; 01 con gà trống màu lông cú cườm với khối lượng 3,2 kg; 01 con gà trống màu lông khét bông, khối lượng 2,6 kg) đang nhốt trong lồng, N và S đã trộm 03 con gà trên và đêm về nhốt sau nhà của Trịnh Hoàng N.
Đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 21/9/2020 Lê Thanh S và Trịnh Hoàng N tiếp tục rủ nhau đến khu vực gần nhà ông Phạm Văn S tìm tài sản để lấy trộm. Khi đến nhà ông Trần Minh Ch, sinh năm 1984 tại ấp R, xã Th, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang phát hiện có 02 vỏ bình gas hiệu DUYPHAT số sản xuất 351334, khối lượng 13,6 kg đã qua sử dụng), Trịnh Hoàng N đứng ở ngoài canh đường còn Lê Thanh S lén lút tiếp cận dùng kiềm có sẵn trong nhà kho cắt ống dẫn gas, rồi nhanh chóng lây trộm vỏ bình gas, cùng với N mang về nhà N cất giấu. Sau đó bị lực lượng Công an xã Th phát hiện, mời Lê Thanh S và Trịnh Hoàng N làm việc, S và N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và giao nộp toàn bộ vật chứng có liên quan.
Tại Biên bản và Bản kết luận định giá tài sản số 25/BB-HĐ ngày 10/3/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân thành phố Hà Tiên, kết luận:
- 01 con gà trống, màu lông trắng và khối lượng 2,8 kg, giá 336.000 đồng;
- 01 con gà trống, màu lông cú cườm và khối lượng 3,2 kg, giá 384.000 đồng;
- 01 con gà trống, màu lông khét bông và khối lượng 2,6 kg, giá 312.000 đồng.
- 01 bình gas nấu ăn hiệu DUYPHAT số sản xuất 351334, khối lượng 13,6 kg (đã qua sử dụng), giá 200.000 đồng.
Tổng giá trị tài sản là: 1.232.000 đồng (Một triệu hai trăm ba mươi hai nghìn đồng).
Vật chứng trong vụ án gồm:
- 01 con gà trống, màu lông trắng và khối lượng 2,8 kg, 01 con gà trống, màu lông cú cườm và khối lượng 3,2 kg, 01 con gà trống, màu lông khét bông và khối lượng 2,6 kg đã trả lại cho bị hại ông Phạm Văn S2.
- 01 bình gas nấu ăn hiệu DUYPHAT số sản xuất 351334, khối lượng 13,6 kg (đã qua sử dụng) đã trả lại cho ông Trần Minh Ch.
- 01 (Một) xe máy nhãn hiệu HONDA Chaly màu xanh, Biển kiểm soát 68HA-8230, số máy CF50E3106851, số khung không rõ hiện đang bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Tiên.
Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại đã nhận lại toàn bộ tài sản nên không yêu cầu bồi thường.
Tại Bản cáo trạng số 01/CT-VKSHT ngày 11/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tiên truy tố bị cáo Lê Thanh S về tội “Trộm cắp tài sản”.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lê Thanh S phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo mức án từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù. Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Ghi nhận việc trả lại tài sản cho bị hại, chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp theo Biên bản nhận lại toàn bộ tài sản của ông Phạm Văn S và ông Trần Minh C. Trả lại cho chủ sở hữu bà Nguyễn Thị Hà 01 (Một) xe máy nhãn hiệu HONDA Chaly màu xanh, Biển kiểm soát 68HA-8230, số máy CF50E3106851, số khung không rõ hiện đang bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Tiên. Về án phí: Buộc bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi của mình và không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát, chỉ xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra- Công an thành phố Hà Tiên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tiên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: Bị hại ông Trần Minh Ch đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt, ông Phạm Văn S2 có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Xét thấy bị hại đã có lời khai tại cơ quan điều tra, đồng thời việc vắng mặt không gây trở ngại cho việc xét xử nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt họ theo quy định tại Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.
[3] Tại phiên tòa, bị cáo đã hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và còn được chứng minh qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và chứng minh tại phiên tòa, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 04 giờ ngày 19/9/2020, Lê Thanh S điều khiển xe máy nhãn hiệu HONDA (Chaly), biển kiểm soát số 68HA-8230 chở Trịnh Hoàng N đến khu vực nhà ông Phạm Văn S2 tại ấp R, xã Th, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang. Tại đây N và S lén lút đột nhập vào bên trong, lấy trộm 01 con gà trống màu lông trắng với khối lượng là 2,8 kg, 01 con gà trống màu lông cú cườm với khối lượng 3,2 kg, 01 con gà trống màu lông khét bông khối lượng 2,6 kg) đem về nhốt sau nhà của Trịnh Hoàng N.
Đến khoảng 01 giờ 30 phút ngày 21/9/2020 Lê Thanh S và Trịnh Hoàng N tiếp tục đến nhà ông Trần Minh Ch, tại ấp R, xã Th, thành phố Hà Tiên, tỉnh Kiên Giang lấy trộm vỏ bình gas hiệu DUYPHAT số sản xuất 351334, khối lượng 13,6 kg đã qua sử dụng và mang về nhà Ncất giấu. Sau đó bị lực lượng Công an xã Th phát hiện, S và N đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội và giao nộp toàn bộ vậ chứng có liên quan. Tổng giá trị tài sản là 1.232.000 đồng (Một triệu hai trăm ba mươi hai nghìn đồng). Scó 01 tiền sự về hành vi “Trộm cắp tài sản”, bị Công an xã Thuận Yên xử phạt hành chính theo Quyết định số 716/QĐ- XPVPHC ngày 30/3/2020. Do đó hành vi của bị cáo Lê Thanh S đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự, cụ thể:
“Điều 173. Tội trộm cắp tài sản 1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tiên truy tố bị cáo Lê Thanh S về tội danh và điều khoản nêu trên là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.
Đối với hành vi của Trịnh Hoàng N đã cùng Lê Thanh S thực hiện việc phạm tội với giá trị là 1.232.000 đồng và N chưa bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản và chưa bị kết án về tội phạm trên nên chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, Công an xã Th đã ra quyết định xử phạt hành chính đối với Nam Xét tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tài sản và quyền sở hữu hợp pháp của người khác nhằm mục đích tiêu xài cá nhân. Hành vi của bị cáo còn gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Bị cáo lợi dụng việc sơ hở, thiếu cảnh giác của các bị hại, liên tục lét lút thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, cho thấy bị cáo liều lĩnh và xem thường pháp luật.
[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo có 01 tiền sự về hành vi “Trộm cắp tài sản”, bị Công an xã Th xử phạt hành chính theo Quyết định số 716/QĐ-XPVPHC ngày 30/3/2020 với số tiền 1.250.000 đồng(trong đó hành vi trộm cắp tài sản là 750.000 đồng và hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là 500.000 đồng) đến nay vẫn chưa chấp hành xong việc đóng phạt. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi vi phạm, đã nhận ra được lỗi của mình, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Vì vậy, cần xem xét, áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo được quy định tại điểm i, s khoản 1 khoản Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[5] Về áp dụng hình phạt: Tình hình tội phạm về trộm cắp trên địa bàn Hà Tiên ngày càng có chiều hương gia tăng với tính chất phức tạp. Vì vậy cần xử lý nghiêm đối với loại tội phạm này. Xét thấy cần áp dụng một mức hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo sao cho vừa đảm bảo tính giáo dục, vừa răn đe phòng ngừa chung. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù là hoàn toàn có cơ sở chấp nhận và phù hợp với tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo. Cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội trong một thời gian đủ để cải tạo bị cáo thành công dân tốt, biết tôn trọng pháp luật, sống có ích cho gia đình và xã hội.
[6] Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Ghi nhận việc trả lại tài sản cho bị hại, chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp theo Biên bản nhận lại toàn bộ tài sản của ông Phạm Văn S2 và ông Trần Minh Ch. Đối với vật chứng là 01 (Một) xe máy nhãn hiệu HONDA Chaly màu xanh, Biển kiểm soát 68HA-8230, số máy CF50E3106851, số khung không rõ hiện đang bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Tiên trả lại bà Nguyễn Thị H2.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại ông Phạm Văn S2 và ông Trần Minh Ch đã nhận lại tài sản bị mất trộm và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên Hội đồng xét xử ghi nhận.
[8] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 48, Điều 38 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 và Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội;
1. Tuyên bố bị cáo Lê Thanh S phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Lê Thanh S 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.
2. Xử lý vật chứng: Ghi nhận việc trả lại tài sản cho bị hại, chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp theo Biên bản nhận lại toàn bộ tài sản của ông Phạm Văn S2 và ông Trần Minh Ch. Đối với vật chứng là 01 (Một) xe máy nhãn hiệu HONDA Chaly màu xanh, Biển kiểm soát 68HA-8230, số máy CF50E3106851, số khung không rõ hiện đang bảo quản tại kho vật chứng Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hà Tiên giao trả cho bà Nguyễn Thị H2.
3. Về án phí: Buộc bị cáo Lê Thanh S nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định pháp luật.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 04/2021/HS-ST
Số hiệu: | 04/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tiên - Kiên Giang |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 03/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về