Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 03/2024/HS-ST NGÀY 29/01/2024 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong các ngày 26 và 29 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 48/2023/TLST-HS ngày 28 tháng 12 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2024/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2024, đối với bị cáo:

Lê Văn H, sinh năm 1977 tại huyện T, tỉnh C; nơi cư trú: Ấp H, xã B, huyện T, tỉnh C; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Bé B (đã chết) và bà Nguyễn Thị E (đà chết); anh chị em ruột: có 11 người; vợ, con: Chưa có; tiền án: 01 tiền án, ngày 20/9/2007 bị Tòa án nhân dân tỉnh C xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong án phạt tù ngày 11/10/2007 nhưng đến nay chưa chấp hành xong về phần án phí nên chưa được xóa án tích; tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 22/9/2023 chuyển tạm giam ngày 28/9/2023 cho đến nay. (có mặt)

- Bị hại: Nguyễn Thị Huyền T, sinh năm 1969;

Địa chỉ cư trú: Ấp H, xã B, huyện T, tỉnh C. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 29/9/2020, Lê Văn H ở ấp H, xã B, huyện T một mình đi bộ từ nhà đến nhà ông S để rủ ông S nhậu. Khi đến nhà ông S, H thấy nhà ông S có bật đèn chiếu sáng nên đứng trước nhà gọi nhiều tiếng nhưng không ai trả lời. H nhìn thấy cửa nhà sau bên hông không khóa nên đi vào nhà thì thấy bà T (vợ ông S) đang ngủ trên ghế, có 01 chiếc điện thoại di động hiệu Sam sung J2 pro (bên trong có 02 sim số 091603xxxx và số 087934xxxx) đang sạc. Lúc này, H nảy sinh ý định lấy trộm điện thoại để sử dụng nên H rút chui sạc và cầm điện thoại trên tay, ngay lúc này ông S từ ngoài vuông đi vào, H sợ bị phát hiện nên cầm điện thoại chạy vào trong buồng trốn xuống gầm giường nhà ông S và quăng bỏ điện thoại vừa lấy trộm được. Ông S phát hiện H nên truy hô cùng bà T bắt giữ H và trình báo Công an xã B đến lập biên bản và thu giữ tang vật. Sau khi bị bắt quả tang, H được trả tự do về nhà để chờ xử lý, nhưng sau đó H bỏ trốn đi đến thành phố Hồ Chí Minh làm thuê ở nhiều nơi, không xác định được địa chỉ. Ngày 02/11/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã ra quyết định khởi tố bị can và ra Lệnh truy nã H ngày 23/11/2020. Đến ngày 22/9/2023, H về địa phương thì bị Công an bắt giữ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 31/KL-HĐĐGTS ngày 21/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự, kết luận 01 điện thoại di động hiệu S2 J2 Pro mua vào tháng 04/2019, đã qua sử dụng. Tại thời điểm ngày 29/9/2020 có giá trị là 2.160.000 đồng.

Tại Kết luận định giá tài sản số 36/KL-HĐĐGTS ngày 18/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân huyện T kết luận: 02 sim số 091603xxxx và số 087934xxxx, không đủ cơ sở để định giá.

Tang vật thu giữ gồm: Trong giai đoạn điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T có tạm giừ và đã trả lại cho chị Nguyễn Thị Huyền T gồm 01 điện thoại di động hiệu S2 J2 Pro, 01 điện thoại Nokia 105, 02 sim số 091603xxxx và 087934xxxx, 01 túi xách nữ màu hồng, 01 lắc đeo tay kim loại màu vàng (không phải là vàng), 01 nhẫn kim loại vàng (không phải là vàng), 01 sợi dây chuyền vàng 610 trọng lượng 4,82 chỉ, 01 vòng đeo tay có mặt tỳ hưu là vàng 999 trọng lượng 0,6 chỉ, 01 nhẫn vàng 610 trọng lượng 0,29 chỉ, 01 nhẫn vàng 98 trọng lượng 01 chỉ, 01 nhẫn vàng 610 trọng lượng 0,32 chỉ, 01 nhẫn vàng 18k trọng lượng 1,08 chỉ, 01 đôi bông tai vàng 610 trọng lượng 0,57 chỉ, Tiền ngân hàng N 23.960.000 đồng, 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Thị Huyền T, 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Trần Văn S1, 01 thẻ bảo hiểm y tế tên Trần Văn S1.

Về dân sự: Bà Nguyễn Thị Huyền T đã nhận lại toàn bộ tài sản bị mất trộm và tài sản bị thu giữ và không có yêu cầu gì về trách nhiệm dân sự đối với Lê Văn H.

Cáo trạng số 05/CT-VKS ngày 27 tháng 12 năm 2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình đã truy tố bị cáo Lê Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo H đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thói Bình vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Lê Văn H mức án từ 09 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã trả toàn bộ tài sản cho bà T nên không đề nghị xem xét.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu nên không đề nghị xem xét.

Bị cáo H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng: Bị cáo rất ăn năn hối cải, kính mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo sớm trở về gia đình làm người có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình, Kiểm sát viên từ khi khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Thực tế, quá trình này bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo H đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội đúng như nội dung cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị hại và các chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Có đủ cơ sở xác định: Bị cáo Lê Văn H đã lén lút lấy trộm của bà Nguyễn Thị Huyền T 01 điện thoại di động hiệu Sam sung J2 Pro dùng để sử dụng cho cá nhân. Tổng giá trị tài sản bị cáo H trộm là 2.160.000 đồng.

Như vậy cáo trạng số 05/CT-VKS ngày 27 tháng 12 năm 2023 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Thói Bình đã truy tố bị cáo Lê Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Trước, trong và sau khi phạm tội bị cáo nhận thức được việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì cần có điện thoại để sử dụng cho cá nhân, bản thân bị cáo có nghề nghiệp nhưng lại lười lao động, xem thường tài sản của người khác, bất chấp pháp luật thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của bị cáo không chỉ xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây hoang man, lo lắng trong nhân dân, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự của địa phương nên cần phải xử phạt nghiêm nhằm để răn đe, phòng ngừa chung.

[4] về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Khi lượng hình Hội đồng xét xử có xem xét đến các tình tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo như trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn, người thân bị cáo có công với đất nước (người chú ruột là liệt sỹ) là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Nhưng đối với bị cáo H sau khi bị bắt quả tang được trả tự do về nhà để chờ xử lý bị cáo đã bỏ trốn và bị bắt giữ theo lệnh truy nã và bị cáo thực hiện hành vi phạm tội khi chưa được xóa án tích, lần phạm tội này là tái phạm nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

[5] Với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo như đã phân tích ở trên, Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thới Bình đối với bị cáo là có căn cứ được chấp nhận.

[6] Về vật chứng đã thu giữ: Trong quá trình điều tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T đã trả lại cho bà T là đúng quy định.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bà T đã nhận lại tài sản bị mất trộm và tài sản bị thu giữ và không có yêu cầu gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm h, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn H phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Lê Văn H 10 (mười) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ ngày 22/9/2023.

2. Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Bị cáo Lê Văn H phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bà T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2024/HS-ST

Số hiệu:03/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về