Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA AN, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 03/2023/HS-ST NGÀY 14/02/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 14 tháng 02 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 02/2023/TLST ngày 06 tháng 01 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 03/2023/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Xuân L, sinh ngày 07 tháng 4 năm 2000 tại huyện Lục Y, tỉnh Yên Bái; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn 2, xã Mường L, huyện Lục Y, tỉnh Yên Bái; nghề nghiệp: Không nghề; trình độ văn hóa: Lớp 11/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn T, sinh năm 1977 (Đã chết) và bà Hứa Thị Ch, sinh năm 1982; Vợ, con: Chưa có.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 24/11/2022 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Hứa Hoàng A, sinh năm 1987.

Nơi cư trú: Xóm Nà B, xã Đại T, huyện Hòa A, tỉnh Cao Bằng. Có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Đinh Xuân Th, sinh năm 1987.

Nơi cư trú: Tổ 4, phường Đề Th, thành phố Cao B, tỉnh Cao Bằng. Có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1989.

Nơi cư trú: Xóm Héc Ch, xã Đại T, huyện Hòa A, tỉnh Cao Bằng. Có mặt.

2. Anh Hứa Văn L, sinh năm 1972.

Nơi cư trú: Xóm Nà B, xã Đại T, huyện Hòa A, tỉnh Cao Bằng. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 23/11/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng tiếp nhận Đơn trình báo của Hứa Hoàng A về việc ngày 06/11/2022 anh A đi làm về đến nhà thì phát hiện bị mất chiếc xe đạp điện và nghi ngờ người lấy trộm là Hoàng Xuân L, sinh năm 2000; trú tại Thôn 2, xã Mường L, huyện Lục Y, tỉnh Yên Bái.

Quá trình điều tra xác định: Chiều ngày 05/11/2022, Hoàng Xuân L đến chơi và ngủ tại nhà Hứa Hoàng A. Đến khoảng 07 giờ ngày 06/11/2022 L thức dậy thấy cháu Hứa Thiên K (sinh năm 2016, là con gái của anh A) đang ngồi xem ti vi một mình, không có người lớn ở nhà. L quan sát xung quanh thấy 01 chiếc xe đạp điện đang dựng sát tường bên trái phòng khách, có chìa khóa cắm ở ổ khóa nên đã nảy sinh ý định lấy trộm chiếc xe. L lén lút cầm sạc điện đang đặt dưới nền nhà ở gần xe cất vào cốp và dắt xe ra ngoài cửa, rồi điề u khiển xe đến thị trấn Nước H, sau đó di chuyển theo đường Hồ Chí Minh hướng từ huyện Hòa An đến thành phố Cao Bằng để tìm chỗ bán xe. Khi đến khu vực gần đường tròn Km5 thuộc tổ 7, phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng L đã bán chiếc xe cho anh Đinh Xuân Th là chủ cửa hàng sửa chữa, mua bán xe máy Xuân Khang được số tiền 2.500.000,đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng). Sau đó Lộc đi bộ đến Bến xe khách tỉnh Cao Bằng để bắt xe về nhà tại tỉnh Yên Bái. Toàn bộ số tiền bán xe, L đã sử dụng để chi tiêu hết cho cá nhân.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 24/KL-ĐGTS, ngày 24/11/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Hình sự huyện Hòa An xác định: Giá trị của 01 (một) chiếc xe đạp điện hai bánh nhãn hiệu LTP BIKE M133, màu xanh xám, giỏ xe màu trắng, đen, đỏ, xe mua tháng 09/2022 đã qua sử dụng là 4.500.000,đ (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng).

Bị hại Hứa Hoàng A trình bày: Anh và bị cáo có quen biết do trước đây làm cùng công ty tại Bắc Ninh. Ngày 05/11/2022 bị cáo đến nhà bị hại chơi và ngủ qua đêm. Đến khoảng 17 giờ, ngày 06/11/2022 khi đi làm về bị hại không thấy chiếc xe đạp điện loại hai bánh trong nhà, bị hại và gia đình đã tổ chức tìm kiếm chiếc xe nhưng không thấy. Bị hại nghi ngờ bị cáo trộm chiếc xe điện của mình nên đã gọi điện cho bị cáo nhiều lần nhưng không liên lạc đước, bị hại đã làm đơn trình báo cơ quan công an. Nay bị hại yêu cầu được nhận lại chiếc xe đạp điện bị mất trộm và đề nghị xử lý bị cáo theo quy định của pháp luật, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đinh Xuân Th trình bày: Anh là chủ cửa hàng sửa chữa, mua bán xe máy Xuân Khang gần đường tròn Km5 thuộc tổ 7, phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. Ngày 06/11/2022 anh mua chiếc xe đạp điện với bị cáo Hoàng Xuân L giá 2.500.000,đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng), khi mua anh không biết chiếc xe do bị cáo trộm cắp mà có. Hiện nay, bị cáo đã chi tiêu hết số tiền trên, anh Th nhận thấy bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định và hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, không có khả năng kinh tế nên anh tự nguyện không yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền anh đã mua xe với bị cáo.

Người làm chứng Hứa Văn L trình bày: Vào khoảng hơn 9 giờ 00 phút, sáng ngày 06/11/2022 anh đang làm việc tại khu vực ruộng gần nhà tại xóm Nà B, xã Đại T, huyện Hòa A, tỉnh Cao Bằng có nhìn thấy một nam thanh niên (có đặc điểm mặc áo khoác và quần dài màu đen, đeo khẩu trang trắng, dáng hơi gầy, tóc ngắn, đầu không đội mũ, chân đi tất và dép) điều khiển xe đạp điện loại hai bánh, màu xanh xám, không gắn biển số, không có gương chiếu hậu, giỏ xe màu trắng, đỏ, đen của anh Hứa Hoàng A là em trai vợ của L đi theo đường nội đồng từ xóm Nà B đến xóm Héc Ch, xã Đại T. Nhà A cách nhà L vài căn, từ trước đến nay trong xóm chưa có chiếc xe nào có đặc điểm như trên. Anh L thấy người điều khiển xe giống với người bạn của A đến chơi trước đó và cũng là bị cáo tại phiên tòa ngày hôm nay.

Người làm chứng Hoàng Văn T trình bày: Vào khoảng 9 giờ đến 9 giờ 30 phút, sáng ngày 06/11/2022 khi anh đang phơi ngô ở ruộng gần đường cách ngã ba đường nội đồng Héc Ch - Nà B, xã Đại T khoảng 500m thì có một nam thanh niên (có đặc điểm mặc áo khoác và quần dài màu đen, đeo khẩu trang trắng, dáng hơi gầy, tóc ngắn, đầu không đội mũ, đi dép màu nâu hoặc đen) điều khiển xe đạp điện loại hai bánh, màu xanh xám, không gắn biển số, không có gương chiếu hậu, giỏ xe màu trắng, đỏ, đen theo hướng Đại Tiến - Đức Xuân nhưng sau đó dừng lại nói chuyện với một người đi đường vài phút rồi quay đầu đi về hướng thị trấn Nước Hai. Anh thấy chiếc xe trên giống với xe của anh Hứa Hoàng A, trú tại xóm Nà B vì xung quanh khu vực xóm Héc Ch, xóm Nà B chỉ có chiếc xe của gia đình anh Hứa Hoàng A là có đặc điểm như trên, còn người điều khiển xe đúng là bị cáo tại phiên tòa hôm nay.

Bản cáo trạng số: 02/CT-VKSHA ngày 05/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An đã truy tố bị cáo Hoàng Xuân L về tội "Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo về tội danh, điều luật và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Hoàng Xuân L phạm tội “Trộm cắp tài sản”, xử phạt bị cáo từ 09 tháng đến 12 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Trả lại cho bị hại chiếc xe đạp điện loại hai bánh, màu xanh xám (có kèm bộ sạc), nhãn hiệu LTP BIKE M133, giỏ màu đỏ - trắng - đen, xe không có gương chiếu hậu và biển kiểm soát, xe đã qua sử dụng.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo, đề nghị HĐXX không xem xét.

Bị cáo L không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của Kiểm sát viên về tội danh cũng như hình phạt. Khi được nói lời nói sau cùng bị cáo xin lỗi bị hại và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Những chứng cứ, tài liệu do cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên thu thập, người tham gia tố tụng cung cấp; hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Hòa An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về chứng cứ, tài liệu, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các chứng cứ, tài liệu, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thu thập và thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, qua đó xác định được: Do muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên khoảng 07 giờ ngày 06/11/2022, tại nhà của anh Hứa Hoàng A xóm Nà B, xã Đại T, huyện Hòa A, tỉnh Cao Bằng, Hoàng Xuân L đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc xe đạp điện của anh A có giá trị là 4.500.000,đ (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng).

Hành vi của bị cáo Hoàng Xuân L đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Do đó, Bản cáo trạng số 02/CT-VKSHA ngày 05 tháng 01 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa An đã truy tố, cũng như ý kiến luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là ít nghiêm trọng, nhưng đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự trên địa bàn huyện Hòa An. Bị cáo đang trong độ tuổi lao động, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi trộm cắp tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Vì vậy, cần xử lý bị cáo với mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo nói riêng và phòng ngừa tội phạm nói chung.

[4] Xét nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo:

[4.1] Nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

[4.2] Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự được Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4.3] Tình tiết tăng nặng: Không có.

[5] Về hình phạt: Sau khi xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, ý kiến đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát. Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo có nhân thân tốt, được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, không có tình tiết tăng nặng. Do đó, để đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đảm bảo tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo, cũng như phòng ngừa tội phạm tại địa phương. Mức án Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có thu nhập ổn định, hoàn cảnh gia đình khó khăn, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo như đề nghị của Đại diện Viện Kiểm sát là phù hợp.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại yêu cầu được nhận lại chiếc xe đạp điện bị mất trộm, không có yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề ra xem xét. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền 2.500.000,đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) đã mua chiếc xe đạp điện do bị cáo trộm cắp. Hội đồng xét xử xét thấy ý kiến của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là hoàn toàn tự nguyện, không bị đe dọa, không bị ép buộc và không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định của pháp luật nên ghi nhận ý kiến của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong bản án.

[7] Về việc xử lý vật chứng: 01 (Một) xe đạp điện loại hai bánh, màu xanh xám (có kèm bộ sạc), nhãn hiệu LTP BIKE M133, giỏ màu đỏ - trắng - đen, xe không có gương chiếu hậu và biển kiểm soát, xe đã qua sử dụng là tài sản hợp pháp của bị hại. Xét thấy, yêu cầu được trả lại chiếc xe của bị hại là có căn cứ và phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đinh Xuân Th là người đã mua chiếc xe đạp điện với bị cáo Hoàng Xuân L, quá trình mua bán anh Th không biết đây là chiếc xe bị cáo L trộm cắp mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hòa An không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Đinh Xuân Th là có cơ sở, đúng quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử không đặt vấn đề ra xem xét, giải quyết.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoan 1 Điều 173, điêm i, s khoan 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự; Căn cứ Điều 106, khoản 2 Điều 136, Điều 329, Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hoàng Xuân L pham tôi “Trộm cắp tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Hoàng Xuân L 09 (Chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 24/11/2022.

Quyết định tạm giam bị cáo 45 (Bốn mươi năm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm để bảo đảm thi hành án.

3. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận sự tự nguyện của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Đinh Xuân Th về việc không yêu cầu bị cáo hoàn trả số tiền 2.500.000,đ (Hai triệu năm trăm nghìn đồng) đã mua chiếc xe đạp điện do bị cáo trộm cắp.

4. Về xử lý vật chứng: Trả lại 01 (Một) xe đạp điện loại hai bánh, màu xanh xám (có kèm bộ sạc), nhãn hiệu LTP BIKE M133, giỏ màu đỏ - trắng - đen, xe không có gương chiếu hậu và biển kiểm soát, xe đã qua sử dụng cho anh Hứa Hoàng A, sinh năm 1987; trú tại xóm Nà B, xã Đại T, huyện Hòa A, tỉnh Cao Bằng là chủ sở hữu hợp pháp.

Xác nhận vật chứng hiện nay đang được tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòa An theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 15 ngày 06/01/2023.

5. Về án phí: Buộc bị cáo Hoàng Xuân L phải chịu 200.000,đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước.

6. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2023/HS-ST

Số hiệu:03/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà An - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về