Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 03/2022/HS-ST NGÀY 10/02/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 10-02-2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 30/2021/TLST-HS ngày 17-12-2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 01/2022/QĐXXST-HS ngày 04-01-2022 đối với bị cáo:

Trần Kim D; Sinh ngày 18 tháng 11 năm 1998. Nơi sinh: Mỹ Tú, Sóc Trăng; Đăng ký thường trú: Ấp MT, Thị trấn H, huyện MT, tỉnh Sóc Trăng. Giới tính: Nữ. Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Công nhân. Con ông: Trần Văn T, sinh năm: 1964 và bà: Phan Thị Ph, sinh năm: 1966. Anh, chị em ruột: có 03 người, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất là bị cáo. Tiền án: không. Tiền sự: không. Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 19 tháng 10 năm 2021 cho đến nay (có mặt).

- Bị hại: Nguyễn Chí T, sinh năm 1993; Địa chỉ: Ấp M, xã MT, huyện MT, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt);

- Người làm chứng:

1. Huỳnh Trí D; Địa chỉ: Ấp M, xã M, huyện MT, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt);

2. Lê Thanh T; Địa chỉ: Ấp M, Thị trấn H, huyện MT, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt);

3. Phạm Thanh S; Địa chỉ: Ấp Th, xã TH, huyện MT, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt);

4. Lê Trí H; Ấp N, Thị trấn H, huyện MT, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt);

5. Tạ T; Ấp X, thị trấn C, huyện Ch, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt);

6. Nguyễn Thanh V (Ng); Địa chỉ: 740B, Quốc Lộ N, khóm M, phường P, thành phố S, tỉnh Sóc Trăng. (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội D vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 10 giờ ngày 08 tháng 07 năm 2021 Trần Kim D một mình điều khiển xe mô tô biển số 83M1 - 01107 nhãn hiệu Exciter đi từ thành phố Sóc Trăng đến tiệm sửa xe Thanh Tiền thuộc ấp Cầu Đồn, Thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng để sửa xe. Trong lúc D ngồi trong tiệm chờ sửa xe thì thấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax của Nguyễn Chí T đang để trên kệ sạc pin. D lợi dụng lúc sơ hở không ai để ý, D đi lại rút dây sạc ra, lấy chiếc điện thoại bỏ vào trong túi quần, đi ra ngoài lấy xe chạy đi. D chạy xe đến gần cổng chào huyện Mỹ Tú thì gọi điện cho Lê Trí H thuê xe ô tô chở đi thành phố Sóc Trăng, Hiếu chạy xe ô tô đến, bị cáo D chạy xe của mình đến tiệm điện cơ Nhàn thuộc ấp Trà Coi A, xã Mỹ Hương gửi xe, H chở D đến thành phố Sóc Trăng, D kêu H chở đến phòng trọ của Nguyễn Thanh V (tên gọi khác là Ng) ở gần công ty cổ phần thực phẩm Sao Ta, D đem chiếc điện thoại trộm của T vào cất giấu trong phòng trọ của V.

Bị cáo D kêu H chở về tiệm điện cơ N lấy xe, khi về đến tiệm điện cơ Nhàn thì Hiếu chạy xe đi về. Sau đó Nguyễn Chí T chạy xe đến kêu D lại tiệm sửa xe Thanh Tiền nói chuyện, bị cáo chạy xe theo T đến tiệm sửa xe Thanh Tiền, khi đến tiệm sửa xe Thanh Tiền, T hỏi bị cáo D “Mày có lấy điện thoại tao không”, bị cáo D trả lời “không có”, T dùng tay đánh vào mặt của bị cáo D một cái, D thừa nhận toàn bộ hành vi và trả chiếc điện thoại lại cho T.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 26 ngày 07-10-2021 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân huyện Mỹ Tú, kết luận: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax 128Gb mua vào ngày 07/5/2021 với giá 28.800.000 đồng. Khảo sát giá thị trường ngày 08/7/2021 là 30.499.000 đồng giá trị còn lại của tài sản là 80% + thành tiền: 30.499.000 đồng x 80% = 24.399.200 đồng.

Tại Cáo trạng số 01/CT-VKS.MT ngày 15-12-2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú đã truy tố bị cáo Trần Kim D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Trần Kim D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo là đúng tội.

Áp dụng Khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đề nghị xử phạt bị cáo từ 06 (sáu) tháng đến 01 (một) năm tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không đề cập xử lý.

Tại phiên tòa, bị hại T vắng mặt nên Hội đồng xét xử xem xét lời khai của bị hại T trong quá trình điều tra thì T thừa nhận đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường. Về hình phạt, yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Trần Kim D.

Tại phiên toà, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, thừa nhận Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mỹ Tú truy tố bị cáo là đúng tội. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội D vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Ngoài ra, trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định pháp luật.

[2]. Đối với việc vắng mặt của bị hại Nguyễn Chí T và những người làm chứng Nguyễn Thanh V, Huỳnh Trí D, Lê Thanh T, Phạm Thanh S, Lê Trí H, Tạ T xét thấy đã có lời khai làm rõ về các tình tiết của vụ án không làm ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Nên Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 292 và Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 xét xử vắng mặt đối với bị hại và những người làm chứng trên.

[3]. Tại phiên tòa, bị cáo Trần Kim D đã khai nhận: Vào khoảng 10 giờ ngày 08 tháng 07 năm 2021, bị cáo đến tiệm sửa xe Thanh Tiền thuộc ấp Cầu Đồn, Thị trấn Huỳnh Hữu Nghĩa, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng để sửa xe, tại đây bị cáo đã lén lút lấy: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 12 Promax 128Gb mua vào ngày 07/5/2021 với giá 28.800.000 đồng. Khảo sát giá thị trường ngày 08/7/2021 là 30.499.000 đồng, giá trị còn lại của tài sản là 80% + thành tiền: 30.499.000 đồng x 80% = 24.399.200 đồng.

Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo tại phiên tòa là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Bị cáo lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị 24.399.200 đồng. Do đó, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Trần Kim D phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Như vậy, Cáo trạng của Viện Kiểm sát truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Xét về nhân thân và tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Trong quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo; Bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; Tài sản mà bị cáo chiếm đoạt đã trả lại cho bị hại nên phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn. Tại giai đoạn điều tra, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h, i, s Khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[5]. Về hình phạt đối với bị cáo Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này, bị cáo luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân nơi cư trú, chưa bao giờ bị kết án, chưa bị xử lý vi phạm hành chính, có khả năng tự cải tạo, có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, việc cho bị cáo được hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội và phù hợp với quy định tại Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15 tháng 5 năm 2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định xử bị cáo hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo cho bị cáo thấy được chính sách khoan hồng của Nhà nước mà cố gắng cải tạo trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội. Như vậy, đề nghị của Kiểm sát viên là có cơ sở, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6]. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[7]. Xét lời đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, về hình phạt và việc áp dụng pháp luật là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8]. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 và khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Trần Kim D là người bị kết án nên bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố : Bị cáo Trần Kim D phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 173; điểm h, i, s Khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Trần Kim D 01 (Một ) năm tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 02 (hai) năm, tính từ ngày tuyên án (ngày 10 tháng 02 năm 2022).

Giao bị cáo Trần Kim D cho Ủy ban nhân dân Thị Trấn Huỳnh Hữu Nghĩa, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Bị cáo Trần Kim D khi vắng mặt tại nơi cư trú phải có đơn xin phép và được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục. Người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú mới phải trình báo, cung cấp địa chỉ nơi cư trú mới cho Ủy ban nhân dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục. Trong thời gian thử thách, bị cáo Trần Kim D cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

3. Về án phí: Căn cứ vào Khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

điểm a Khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Trần Kim D phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được cấp, tống đạt hợp lệ theo quy định pháp luật, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

130
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 03/2022/HS-ST

Số hiệu:03/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Tú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về