Bản án về tội trộm cắp tài sản số 01/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, TỈNH A

BẢN ÁN 01/2022/HS-ST NGÀY 24/01/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 24 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 69/2021/HS-ST ngày 20 tháng 12 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 02/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 01 năm 2022, đối với bị cáo:

Danh Hùng D , sinh năm 1993. Nơi cư trú: ấp P , thị trấn P , huyện T , tỉnh A ; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Đạo Phật; quốc tịch: Việt Nam; con ông Danh Hùng L , sinh năm 1972 (đã chết) và bà Nguyễn Thị L , sinh năm 1972; anh chị em ruột có ba người, bị cáo là người thứ nhất; vợ là Lê Thị N , sinh năm 1996; con là Lê Chí Thuận, sinh năm 2015.

Ngày 04/5/2013, bị Ủy ban nhân dân huyện T , tỉnh A áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, trong thời hạn 24 tháng, đến ngày 03/3/2015 chấp hành xong quyết định.

Ngày 15/6/2018, bị Tòa án nhân dân huyện T , tỉnh A áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc trong thời hạn 20 tháng, đến ngày 19/10/2019 chấp hành xong quyết định.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/9/2021 cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

1. Anh Trương Điền L , sinh năm 1990. Nơi cư trú: ấp P , thị trấn P , huyện T , tỉnh A (vắng mặt).

2. Chị Trần Thị Mỹ X , sinh năm 1998. Nơi cư trú: ấp P , thị trấn P , huyện T , tỉnh A (vắng mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: ông Đào Minh N , sinh năm 1976. Nơi cư trú: khóm Đ , phường M , thành phố L , tỉnh A (vắng mặt).

Người làm chứng:

1. Chị Nguyễn Thị M , sinh năm 2000. Nơi cư trú: ấp Thanh N , thị trấn P , huyện T , tỉnh A (vắng mặt).

2. Bà Trần Kim H , sinh năm 1953. Nơi cư trú: ấp P , thị trấn P , huyện T , tỉnh A (vắng mặt).

3. Chị Trần Thị Mỹ Q , sinh năm 2009. Nơi cư trú: ấp P , thị trấn P , huyện T , tỉnh A (vắng mặt).

4. Ông Trần Bá T , sinh năm 1965. Nơi cư trú: ấp P , thị trấn P , huyện T , tỉnh A (vắng mặt).

5. Ông Lý Anh Tuấn, sinh năm 1963. Nơi cư trú: khóm Tây H , phường M , thành phố L , tỉnh A (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: khoảng 11 giờ ngày 20/02/2021, Danh Hùng D điều khiển xe mô tô không xác định được biển số đến tiệm điện gia dụng Huy H của anh Trương Điền L ở ấp P , thị trấn P , huyện T với mục đích tìm tài sản lấy trộm. Tại đây, D thấy chị Nguyễn Thị M (em gái của anh L ) đi vào bên trong đưa con ngủ, không có người trông coi trước nhà nên D đi đến kệ sắt lấy trộm 01 máy hàn hiệu Sanda ARC-200 màu xanh và 01 cuộn dây điện dài 12,4m, đem đến cửa hàng Cơ khí V Mua 2 của Đào Minh N ở khóm Đ , phường M , thành phố L bán được 1.000.000 đồng, nhưng không cho biết tài sản lấy trộm.

Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, L phát hiện máy hàn và cuộn dây điện bị mất nên xem lại camera phát hiện người thanh niên đội nón bảo hiểm màu xanh, mặc áo sơ mi sọc ca rô màu xám đỏ, quần jean lửng màu xanh là người lấy trộm tài sản trên nên đến Công an thị trấn P trình báo. Ngày 23/02/2021, biết hành vi bị phát hiện, D đến Công an thị trấn P đầu thú.

Ngày 23/02/2021, anh N giao nộp 01 máy hàn hiệu Sanda ARC-200 màu xanh; 01 cuộn dây điện dài 12,4m màu đen cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện T .

Ngày 23/4/2021, Danh Hùng D bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện T khởi tố bị can về hành vi trộm cắp tài sản và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, nhưng sau đó D bỏ trốn khỏi nơi cư trú bị Cơ quan Cảnh sát điều tra ra Quyết định truy nã.

Đến khoảng 08 giờ ngày 01/9/2021, bị cáo Danh Hùng D đi bộ đến nhà của Trần Bá P ở ấp P , thị trấn P , huyện T thấy cửa rào mở, cửa nhà khép hờ nên D đi vào phòng ngủ của Trần Thị Mỹ X vợ của P, lấy 01 điện thoại di động hiệu Oppo A15S của X đang ghim sạc trong phòng cất giấu vào túi quần. Sau đó, D thuê xe honda khách của ông Lý Anh T chở về thành phố L , khi đến phường M , nghi ngờ D lấy trộm tài sản người khác nên ông T điều khiển xe đến chốt kiểm dịch Covid-19 ở phường Đ , thành phố L trình báo. Sau đó, D bị bắt giữ theo Quyết định truy nã.

Vật chứng thu giữ:

- 01 máy hàn hiệu Sanda ARC-200 màu xanh; 01 cuộn dây điện dài 12,4m màu đen;

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo A15S màu xanh - đen;

- 01 quần sọt jean màu xanh; 01 áo sơ mi dài tay sọc caro màu xanh - trắng - đỏ phía dưới cổ áo bên trái có nhiều vết màu nâu;

Tại bản kết luận định giá tài sản số 17/KL-HĐGTS ngày 26/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T , kết luận:

- 01 máy hàn hiệu Sanda ARC-200 màu xanh, trị giá 1.960.000 đồng.

- Dây điện hàn loại 25mm, dài 12,4m màu đen, trị giá 1.128.400 đồng. Tổng giá trị tài sản là 3.088.400 đồng.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 93/KL-HĐGTS ngày 08/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T , kết luận:

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo A15S màu xanh đen, trị giá 2.793.000 đồng;

- 01 sim điện thoại Mobifone, trị giá 50.000 đồng;

- 01 ốp lưng điện thoại nhựa màu trắng, trị giá 70.000 đồng; Tổng giá trị tài sản là 2.913.000 đồng.

Các ngày 25/4/2021; 01/11/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện T đã trao trả 01 máy hàn hiệu Sanda ARC-200 màu xanh; 01 cuộn dây điện dài 12,4m màu đen cho anh Trương Điền L và 01 điện thoại di động hiệu Oppo A15S màu xanh - đen cho chị Trần Thị Mỹ X .

Cáo trạng số: 73/CT-VKSTS-HS ngày 20/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T , tỉnh A truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện T , tỉnh A để xét xử đối với bị cáo Danh Hùng D về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Đại diện Viện kiểm sát trình bày luận tội, khẳng định hành vi của bị cáo phạm tội“Trộm cắp tài sản”, giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng khoản 1 Điều 173, áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015, áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo từ 01 đến 02 năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Đào Minh N đã giao nộp tài sản cho cơ quan Công an và không yêu cầu bị cáo D trả lại 1.000.000 đồng; các bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì nên không đề cập xem xét. Số tiền 1.000.000 đồng bị cáo có được do bán tài sản trộm cắp nên cần buộc bị cáo giao nộp để tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

Về vật chứng: đề nghị áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy: 01 quần sọt jean màu xanh; 01 áo sơ mi dài tay sọc caro màu xanh - trắng - đỏ phía dưới cổ áo bên trái có nhiều vết màu nâu.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai nhận thực hiện hành vi trộm cắp tài sản như cáo trạng Viện kiểm sát mô tả. Bị cáo không tranh luận về tội danh, khoản, điều luật, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ và hình phạt mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo; nói lời sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại: anh Trương Điền L , chị Trần Thị Mỹ X trình bày, việc anh L bị mất trộm 01 máy hàn hiệu Sanda ARC-200 màu xanh và 01 cuộn dây điện dài 12,4m; chị X bị mất trộm điện thoại di động hiệu Oppo A15S phù hợp với nội dung vụ án đã nêu. Anh L , chị X đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường, yêu cầu xử lý bị cáo theo pháp luật.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: ông Đào Minh N trình bày, việc Danh Hùng D đến bán máy hàn hiệu Sanda ARC-200 màu xanh và 01 cuộn dây điện dài 12,4m cho ông N như đã nêu trên, ông không biết tài sản D bán do phạm tội mà có. Ông N đã giao nộp tài sản trên cho Công an, không yêu cầu D trả lại số tiền 1.000.000 đồng.

Người làm chứng:

- Chị Nguyễn Thị M trình bày: việc anh L bị mất trộm 01 máy hàn hiệu Sanda ARC-200 màu xanh và 01 cuộn dây điện dài 12,4m như nội dung vụ án đã nêu.

- Bà Trần Kim H (mẹ ruột anh P) trình bày: khoảng 06 giờ ngày 01/9/2021, D đến nhà hỏi mượn tiền nhưng bà H không có tiền cho mượn nên D hỏi nhà của anh P ; bà H chỉ cặp bên. Sau đó, thấy D đi vào trong nhà anh P khoảng 05 phút đi ra, thuê ông T chở về hướng thành phố L . Đến khoảng 07 giờ cùng ngày, vợ chồng anh P phát hiện mất điện thoại.

- Chị Trần Thị Mỹ Q (con ruột anh P , chị X ) trình bày: khoảng 06 giờ ngày 01/9/2021, chị Q đang ngủ trong mùng thì có người đàn ông vào nhà hỏi cha có nhà không, rồi bỏ đi ra ngoài, khi chị Q kiểm tra phát hiện mất điện thoại hiệu Samsung nên cho cha, mẹ hay.

- Các ông Trần Bá T , Lý Anh T trình bày: khoảng 08 giờ ngày 01/9/2021, Danh Hùng D đến thuê ông T chở đi thành phố L , do ông T yêu cầu nhận tiền trước thì D đưa điện thoại hiệu Samsung cho ông T giữ. Trên đường chở D đến khu vực thị trấn P thì ông T gọi điện cho hay D là người lấy trộm điện thoại của chị X nên ông T chở D đến chốt kiểm dịch Covid-19 ở phường Đ hỗ trợ bắt D như nội dung vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng hình sự quy định. Giai đoạn điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của người tham gia tố tụng: tại phiên tòa vắng mặt bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng nhưng đã có lời khai trong quá trình điều tra, căn cứ Điều 292 và 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[3] Về trách nhiệm hình sự: lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, những người làm chứng và các biên bản của hoạt động tố tụng, thể hiện: khoảng 11 giờ ngày 20/02/2021, bị cáo Danh Hùng D điều khiển xe mô tô đến tiệm điện gia dụng Huy H của anh Trương Điền L ở ấp P , thị trấn P , huyện T với mục đích tìm tài sản lấy trộm. Tại đây, bị cáo D thấy chị Nguyễn Thị M (em gái của anh L ) đi vào bên trong, không có người trông coi trước nhà nên bị cáo lấy trộm 01 máy hàn hiệu Sanda ARC-200 màu xanh và 01 cuộn dây điện dài 12,4m, đem đến cửa hàng Cơ khí V Mua 2 của anh Đào Minh N ở khóm Đ , phường M , thành phố L bán được 1.000.000 đồng.

Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, anh L phát hiện máy hàn và cuộn dây điện bị mất nên đến Công an thị trấn P trình báo. Ngày 23/02/2021, biết hành vi bị phát hiện, bị cáo D đến Công an thị trấn P đầu thú.

Ngày 23/4/2021, bị cáo D bị Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện T khởi tố bị can về hành vi trộm cắp tài sản và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú nhưng sau đó bị cáo bỏ trốn khỏi nơi cư trú, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra ra Quyết định truy nã.

Đến khoảng 08 giờ ngày 01/9/2021, bị cáo D đi bộ đến nhà của anh Trần Bá P ở ấp P , thị trấn P , huyện T đi vào phòng ngủ của chị Trần Thị Mỹ X , lấy 01 điện thoại di động hiệu Oppo A15S của chị X . Sau đó, bị cáo D thuê xe honda khách của ông Lý Anh T chở về thành phố L . Khi đến phường M , nghi ngờ D lấy trộm tài sản người khác nên ông T điều kiển xe đến chốt kiểm dịch Covid-19 ở phường Đ , thành phố L trình báo. Sau đó, bị cáo bị bắt giữ.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số: 17/KL-HĐĐGTS ngày 20/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T , định giá giá trị tài sản như sau:

- 01 máy hàn hiệu Sanda ARC-200 màu xanh, trị giá 1.960.000 đồng.

- Dây điện hàn loại 25mm, dài 12,4m màu đen, trị giá 1.128.400 đồng.

Tổng giá trị tài sản là 3.088.400 đồng.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 93/KL-HĐGTS ngày 08/9/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T , kết luận:

- 01 điện thoại di động hiệu Oppo A15S màu xanh đen, trị giá 2.793.000 đồng;

- 01 sim điện thoại Mobifone, trị giá 50.000 đồng;

- 01 ốp lưng điện thoại nhựa màu trắng, trị giá 70.000 đồng; Tổng giá trị tài sản là 2.913.000 đồng.

Như vậy, giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt trong vụ án này là 6.001.400 đồng (sáu triệu, không trăm lẻ một nghìn, bốn trăm đồng).

Hành vi của bị cáo lợi dụng chủ sở hữu tài sản mất cảnh giác, lén lút trộm cắp tài sản là có lỗi cố ý, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của bị hại, vi phạm quy định tại Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo phạm tội “Trộm cắp tài sản” là có căn cứ nên được chấp nhận.

[4] Xét tính chất, mức độ phạm tội, thấy: bị cáo nhận thức được tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, mọi hành vi xâm phạm đến tài sản người khác đều vi phạm pháp luật và bị xử lý nghiêm minh nhưng muốn có tiền tiêu xài cho thỏa mãn nhu cầu cá nhân, bất chấp sự trừng trị của pháp luật, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở trong việc quản lý tài sản của các bị hại để lén lút thực hiện hành vi trộm cắp. Hành vi phạm tội của bị cáo xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, đồng thời gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương, gây hoang mang cho dư luận nhân dân. Hội đồng xét xử thấy, cần phải trừng trị nghiêm bị cáo để giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm chung.

Với giá trị tài sản mà bị cáo chiếm đoạt của các bị hại được định lượng thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện kiểm sát đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 quyết định hình phạt đối với bị cáo là phù hợp.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Về tình tiết tăng nặng: sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 20/02/2021, bị cáo bị Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện T khởi tố, cấm đi khởi nơi cư trú nhưng bị cáo đã bỏ trốn khỏi địa phương và tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của chị Trần Thị Mỹ X .

- Về tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản trộm cắp đã trả lại các bị hại, sau khi phạm tội bị cáo đến cơ quan Công an đầu thú.

Do đó, Viện kiểm sát đề nghị áp dụng tình tiết tăng nặng đối với bị cáo được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 và tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ nên được chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng, Hội đồng xét xử thấy: có căn cứ áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; khoản 2, khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát.

[7] Về trách nhiệm dân sự: người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan anh Đào Minh N không yêu cầu bị cáo D trả lại 1.000.000 đồng; các bị hại anh Trương Điền L và chị Trần Thị Mỹ X đã nhận lại tài sản, không yêu cầu gì thêm. Do đó, Hội đồng xét xử không xem xét. Tuy nhiên, số tiền 1.000.000 đồng bị cáo có được do bán tài sản trộm cắp nên buộc bị cáo giao nộp để tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

[8] Về án phí: bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Danh Hùng D phạm tội “Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

2. Xử phạt bị cáo Danh Hùng D 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01 tháng 9 năm 2021.

3. Về trách nhiệm dân sự: căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Buộc bị cáo Danh Hùng D nộp 1.000.000 đồng (một triệu đồng) để tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

4. Về xử lý vật chứng: căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 2 và khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 quần sọt jean màu xanh;

- 01 áo sơ mi dài tay sọc caro màu xanh - trắng - đỏ phía dưới cổ áo bên trái có nhiều vết màu nâu.

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số: 60/QĐ-VKSTS ngày 20/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T ).

5. Về án phí: căn cứ vào khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Danh Hùng D chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: căn cứ vào Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày niêm yết bản án tại Ủy ban nhân dân xã, thị trấn nơi cư trú để yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

318
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 01/2022/HS-ST

Số hiệu:01/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Dân - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về