Bản án về tội trộm cắp tài sản (nhông số xe ô tô bằng thép) số 25/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ HÒA THÀNH, TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 25/2022/HS-ST NGÀY 13/05/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 26/2022/HSST ngày 05 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2022/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 4 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: LÊ HỒ A, sinh năm 1994; tại: T; Nơi đăng ký nhân khẩu thường trú: Tổ 11, ấp A1, xã A2, huyện A3, tỉnh T; Nơi cư trú hiện nay: Ấp A4, xã A5, huyện A3, tỉnh T; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: kinh; Giới tính: nam; Tôn giáo: Cao đài; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê B (đã chết) và bà Hồ C, sinh năm 1956; Vợ Nguyễn Trần Thanh D, sinh năm 1994 (đã ly hôn); Con: 02 người, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2016.

Tiền án: Tại Bản án số 11/2021/HSST ngày 14/01/2021, Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T áp dụng khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tiền sự: Không có.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 09/01/2022, chuyển sang tạm giam ngày 14/01/2022 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại:

- Chị Trần Thị H, sinh năm 1982; Địa chỉ: khu phố Hiệp Hòa, phường T, thị xã H, tỉnh T (Vắng mặt – Có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Anh Trần Thanh M, sinh năm 1965; Địa chỉ: khu phố Long Trung, phường Long Thành Trung, thị xã H, tỉnh T (Vắng mặt – Có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Hồ C, sinh năm 1956; Địa chỉ: Ấp A1, xã A2, huyện A3, tỉnh T (Có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Lê Hồ Tuấn A có một tiền án chưa được xóa án tích, để có tiền tiêu xài A một mình điều khiển xe mô tô biển số 53Y5-xxxx (xe A mượn của mẹ ruột là bà Hồ C, sinh năm 1956, ngụ ấp A1, xã A2, huyện A3, tỉnh T) chạy trên các tuyến đường thuộc thị xã H, tỉnh T tìm tài sản của người dân để sơ hở trộm cắp, đem bán lấy tiền tiêu xài. Khoảng 21 giờ 30 phút, ngày 08/01/2022, A đến tiệm sửa xe ô tô “N” thuộc khu phố Hiệp Hòa, phường T, thị xã H, tỉnh T do ông Mai Hoàng N, sinh năm 1965, ngụ ấp Suối Muồn, xã A2, huyện A3, tỉnh T làm chủ, ông N cho Trần Thanh M, sinh năm 1965, ngụ khu phố Long Trung, phường Long Thành Trung, thị xã H mượn chỗ để bán phụ tùng xe ô tô cũ, thì A phát hiện nhiều phụ tùng xe ô tô đã qua sử dụng của anh M để trong tiệm không có người trông coi. Lúc này, A lén lút đi vào lấy trộm 01 nhông số xe ô tô bằng thép, có đường kính 26cm không có ký hiệu, có trọng lượng 7,6kg; 01 cóc ben (ben tM) bằng thép không có ký hiệu, có trọng lượng 9,2kg; 01 bốt chuyển hướng xe ô tô bằng hộp kim, trên thân có chữ “kama 3” và số 2506, có trọng lượng 52,2kg và 01 ròng rọc (bá lan) màu vàng, ký hiệu inc-co và chữ made in China, trọng tải kéo 1.000kg. Sau khi trộm được các tài sản trên, A để lên xe môtô chở đi cất giấu ở khu đất trống tại hẻm số 4, đường Nguyễn Thái Học, khu phố 4, phường 02, thành phố T. Sau đó, A tiếp tục điều khiển xe môtô quay lại, lấy trộm 02 thước tầng dưới hộp số xe ôtô bằng thép, trên thước có 06 nhông, không có ký hiệu, đã qua sử dụng, trọng lượng 30,6kg để lên xe môtô, định điều khiển tẩu thoát thì bị người dân phát hiện, truy hô, A bỏ xe chạy bộ tẩu thoát về hướng ngã ba Mít Một. Khi đi đến nhà chị Trần Thị H, sinh năm 1982, ngụ khu phố Hiệp Hòa, phường T, thị xã H, A tiếp tục lén lút lấy trộm của chị H 01 máy nén rửa xe có chữ “ATOP” (220V – 1.500W), màu hồng đen, đem ra đường thì bị Công an phường T, thị xã H, tỉnh T bắt giữ.

* Tại Bản kết luận định giá tài sản số 04/KLĐG-TTHS ngày 20 tháng 01 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã H, kết luận:

- 01 nhông số xe ô tô bằng thép, có đường kính 26cm, không có ký hiệu, dính nhiều dầu nhớt, đã qua sử dụng, có trọng lượng 7,6kg, giá 80.000 đồng.

- 01 cóc ben (ben thùng) bằng thép không có ký hiệu, dính nhiều dầu nhớt, đã qua sử dụng, có trọng lượng 9,2kg, giá 100.000 đồng.

- 01 ròng rọc (bá lan) màu vàng, có ký inc-co và chữ made in China, trọng tải kéo 1000kg, giá 1.000.000 đồng.

- 01 bốt chuyển hướng xe ô tô bằng hộp kim gang nhôm, có dính nhiều dầu nhớt, trên thân có chữ “kama 3” và số 2506, có trọng lượng 52,2kg, giá 520.000 đồng.

- 02 thước tầng dưới hộp số xe ô tô bằng thép, trên thước có 06 nhông, không có ký hiệu có dính nhiều dầu nhớt, đã qua sử dụng, trọng lượng 30,6kg, giá 600.000 đồng.

* Tại Bản kết luận định giá tài sản số 05/KLĐG-TTHS ngày 24 tháng 01 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã H, kết luận:

01 máy nén rửa xe có chữ “ATOP”, màu hồng - đen, đã qua sử dụng, có thông số kỹ thuật (220V – 1500W), giá 500.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị cáo đã chiếm đoạt là 2.800.000 đồng.

* Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng: Đã thu hồi toàn bộ tài sản và trả cho các bị hại.

* Đối với bà Hồ C, cho A mượn xe để đi làm, không biết việc A sử dụng xe đi trộm cắp tài sản, nên không xem xét xử lý.

* Quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo; bị cáo có 01 tiền án chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này là tái phạm.

Bản cáo trạng số: 22/QĐ/KSĐT ngày 05 tháng 4 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh T đã truy tố bị cáo Lê Hồ Tuấn A về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo A về tội danh như bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

* Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm s, khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Hồ Tuấn A mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo A vì bị cáo không có tài sản.

* Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại Trần Thanh M, Trần Thị H đã nhận lại tài sản nên không có yêu cầu gì thêm.

* Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị Hội đồng xét xử xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Lời nói sau cùng: Bị cáo A đã ăn năn hối cải, bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt ở mức thấp nhất để bị cáo sớm trở về gia đình làm ăn lương thiện trở thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã H, tỉnh T, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh T, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp đúng theo quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Lời khai của bị cáo Lê Hồ Tuấn A tại phiên tòa phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở xác định:

Vào lúc 21 giờ 30 phút ngày 08/01/2022, tại tiệm sửa xe ô tô “N” thuộc khu phố Hiệp Hòa, phường T, thị xã H, tỉnh T Lê Hồ Tuấn A đã lén lút trộm cắp phụ tùng xe ô tô đã qua sử dụng của anh Trần Thanh M, trị giá 2.300.000 đồng thì bị người dân phát hiện. Trên đường tẩu thoát đến khu phố Hiệp Hòa, phường T, thị xã H, A tiếp tục trộm 01 máy rửa xe của chị Trần Thị H trị giá 500.000 đồng. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt của hai bị hại là 2.800.000 đồng. Hành vi của bị cáo A đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Bị cáo A vẫn biết việc làm của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có tiền tiêu xài và chọn con đường kiếm tiền nhanh nhất mà không phải qua lao động nên dẫn đến việc phạm tội. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân thị xã H truy tố bị cáo A về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[4] Hành vi của bị cáo A là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an ở địa phương nên phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi đã thực hiện.

Khi quyết định hình phạt có xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo A đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lê Hồ Tuấn A đã tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội là trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Do bị cáo A không có tài sản nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung cho bị cáo. [5] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) xe mô tô biển số 53Y5-xxxx, hiệu Mingxing, màu sơn xanh, số máy:1P50FMH*Y0293088*, số khung: VFCPCH0A2YF002735, đã qua sử dụng, chiếc xe này do bị cáo mượn của mẹ ruột là bà Hồ C mua lại của người khác chưa sang tên và tại phiên tòa bà L có yêu cầu nhận lại xe để làm phương tiện nuôi sống gia đình. Xét thấy chiếc xe mà bà L yêu cầu được nhận lại là tài sản của bà L nên cần trả lại cho bà L.

- 01 (một) mũ bảo hiểm màu hồng, đã qua sử dụng; 01 (một) áo thun ngắn tay màu đỏ, đã qua sử dụng là của bị cáo nhưng bị cáo không có yêu cầu nhận lại. Xét thấy những vật chứng này không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận bị hại anh Trần Thanh M và chị Trần Thị H đã nhận lại tài sản xong nên không có yêu cầu gì thêm.

[7] Bị cáo A phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Hồ Tuấn A phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Hồ Tuấn A 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/01/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Trả lại cho bà Hồ C:

- 01 (một) xe mô tô biển số 53Y5-xxxx, hiệu Mingxing, màu sơn xanh, số máy:1P50FMH*Y0293088*, số khung:VFCPCH0A2YF002735, đã qua sử dụng (kèm theo kết luận giám định số 1474/KL-KLHS, ngày 30/3/2022 của phân viện KHHS tại Thành phố Hồ Chí minh), hiện cơ quan thi hành án dân sự thị xã H, tỉnh T đang tạm giữ (theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11/5/2022).

Tịch thu tiêu hủy:

- 01 (một) mũ bảo hiểm màu hồng, đã qua sử dụng; 01 (một) áo thun ngắn tay màu đỏ, đã qua sử dụng, hiện cơ quan thi hành án dân sự thị xã H, tỉnh T đang tạm giữ (theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11/5/2022).

3. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận các bị hại Trần Thanh M, Trần Thị H đã nhận lại tài sản xong nên không có yêu cầu gì thêm.

4. Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Lê Hồ Tuấn A phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai báo cho bị cáo Lê Hồ Tuấn A biết được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án. Riêng bị hại Trần Thị H và Trần Thanh M vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

45
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản (nhông số xe ô tô bằng thép) số 25/2022/HS-ST

Số hiệu:25/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Hoà Thành - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về
Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 08/01/2022, A đã lén lút trộm cắp các phụ tùng xe ô tô đã qua sử dụng của anh Trần Thanh M tại tiệm sửa xe ô tô "N" ở thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh. Trên đường tẩu thoát, A tiếp tục trộm cắp một máy rửa xe của chị Trần Thị H. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 2.800.000 đồng.

Tòa án nhân dân thị xã Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh đã xét xử và tuyên phạt bị cáo Lê Hồ Tuấn A 01 năm tù về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự. Thời hạn tù tính từ ngày 09/01/2022.

Về xử lý vật chứng, Tòa án trả lại cho bà Hồ C chiếc xe mô tô mà bị cáo mượn để đi trộm cắp. Một số vật chứng khác như mũ bảo hiểm và áo thun của bị cáo bị tịch thu tiêu hủy. Các bị hại đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu gì thêm.