Bản án về tội trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 63/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẮC QUANG, TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 63/2023/HS-ST NGÀY 27/09/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP, LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 56/2023/TLST-HS ngày 30/8/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2023/QĐXXST-HS ngày 13/9/2023, đối với bị cáo:

Đặng Văn T1, sinh ngày 29 tháng 9 năm 2004 tại huyện B, tỉnh H. Nơi ĐKHKTT và chỗ ở trước khi bị bắt: Thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh H; số CCCD 002204002765, cấp ngày 15/01/2023, nơi cấp: Cục C về TTXH; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; giới tính: Nam; dân tộc: Tày; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn T2, sinh năm 1980 và bà Lý Thị H, sinh năm 1985; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: Ngày 23/9/2023 bị Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang xử 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 162/2023/HS-ST; bị cáo bị tạm giừ từ ngày 02/6/2023, “có mặt”.

- Bị hại:

+ Anh Đặng Văn M, sinh năm: 1994. Nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện B, tỉnh H “vắng mặt”.

+ Chị Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm: 2000. Nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện B, tỉnh H “có mặt”.

+ Anh Nguyễn Thế V, sinh năm: 1989. Nơi cư trú: Thôn T, xã Đ, huyện B, tỉnh H “có mặt”.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại Đặng Văn M: Chị Nguyễn Thị Thu H1, sinh năm: 2000. Nơi cư trú: Thôn V, xã T, huyện B, tỉnh H “có mặt”.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Phan Anh T3, sinh năm: 1988. Nơi cư trú: Tổ F, thị trấn V, huyện H, tỉnh H “vắng mặt”.

- Người làm chứng:

+ Ông Lý Văn Đ, sinh năm 1971 “có mặt” + Chị Phạm Thị D, sinh năm 1984 “vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 29/5/2023, Đặng Văn T1 một mình điều khiển xe mô tô BKS: 29Y5 - xxxxx, nhãn hiệu: HONDA, số loại: VISION, màu sơn xanh (xe mượn của chị Trương Thị T4) đến nhà anh Phạm Duy M1 chơi ăn cơm, uống bia. Khi ăn xong T1 và M1 lên ngồi uống nước tại bàn kê ở phòng khách, lúc đó có chị Phạm Thị D (chị gái M1) đến hỏi vay tiền M1, M1 trả lời không có tiền mặt và nói với chị D nếu cần tiền gấp thì M1 đập con lợn bằng sứ ra lấy tiền tiết kiệm cho chị D vay, chị D nói không vay nữa và đi về, lúc này T1 biết nhà M1 có con lợn bằng gốm sứ bên trong có tiền. Tối hôm đó, T1 ngủ lại nhà M1, đến khoảng 06 giờ 30 phút ngày 30/5/2023 T1 tỉnh dậy. Do không có tiền chi tiêu cá nhân, T1 nảy sinh ý định lấy trộm con lợn bằng gốm sứ của nhà M1 do biết có tiền, T1 đi vào phòng ngủ đầu tiên (cạnh gian phòng khách đi vào trong nhà) quan sát thấy chị Nguyễn Thị Thu H1 (vợ M1) đang nằm ngủ trên giường cùng 02 con nhỏ, T1 nhìn thấy con lợn bằng gốm sứ màu đỏ, ánh nhũ mắt màu vàng để trên nóc tủ nhựa (đặt ở sát tường bên tay phải từ cửa đi vào, ở cuối giường ngủ trong phòng) và trên giường có điện thoại đang sạc, quan sát không có ai, T1 đi vào trong phòng lấy con lợn bằng gốm sứ trên nóc tủ đem ra cất vào cốp xe mô tô BKS: 29Y5 - xxxxx dựng ở ngoài cửa nhà M1, rồi tiếp tục quay lại phòng chị H1 đang ngủ lấy 01 chiếc điện thoại di động Iphone 6s Plus, màu vàng gold đang cắm sạc để ở trên giường ngủ đi ra để vào hốc để đồ của cánh yếm phía bên trái xe mô tô BKS 29Y5 - xxxxx rồi điều khiển xe mô tô đi ra đường Quốc lộ 2 theo hướng H đi Tuyên Quang. Khi đi đến đỉnh dốc Nậm Tạng, T1 rẽ sang bên trái vào đường bê tông thuộc thôn M, xã V, huyện B, đi được khoảng 10m, T1 dừng xe ở lề đường phải rồi mở cốp lấy con lợn bằng gốm sứ trộm được ở nhà M1 đập xuống mặt đường làm con lợn bị vỡ thành nhiều mảnh và thấy có 02 tờ tiền Việt Nam loại Polime mệnh giá: 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) và 01 tờ tiền Việt Nam loại tiền giấy mệnh giá: 1.000 đồng (Một nghìn đồng), tổng số tiền trong con lợn bị đập vỡ là: 1.001.000 đồng (Một triệu không trăm linh một nghìn đồng). Sau đó, T1 nhặt lấy 02 tờ tiền mệnh giá: 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) cho vào trong cốp xe, còn tờ tiền mệnh giá: 1.000 đồng (Một nghìn đồng) T1 không lấy mà để lại đó rồi điều khiển xe mô tô đi huyện H, tỉnh H chơi và ở tại khách sạn H3 tại tổ B thị trấn V, huyện H và số tiền trộm cắp được T1 đã chi tiêu cá nhân hết. Sau khi phát hiện bị mất tài sản, sáng ngày 30/5/2023 anh Phạm Duy M1 đã trình báo Công an xã T, huyện B để giải quyết.

Đối với T1: Đến khoảng 16 giờ ngày 31/5/2023, do không còn tiền chi tiêu, T1 đến cửa hàng mua bán sửa chữa điện thoại di động của Phan Anh T3 bán chiếc điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Iphone 6s Plus màu vàng gold trộm ở nhà anh M1 được số tiền: 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng). Khi bán T1 không nói cho anh T3 biết đây là tài sản T1 trộm cắp mà có. Số tiền ngủ và hát của T1 tại khách sạn H3 là 2.295.000 đồng, do không có tiền để trả nên chủ khách sạn là anh Lù Văn N đã giữ lại chiếc xe mô tô BKS 29Y5-xxxxx. Đến ngày 02/6/2023, nhận thức được hành vi vi phạm pháp luật của mình, T1 đã đi đến Công an huyện B đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản tại gia đình M1.

Quá trình điều tra tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B: T1 khai nhận, ngoài hành vi trộm cắp tài sản vào ngày 30/5/2023 ở nhà anh Phạm Duy M1, T1 còn thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản 01 xe mô tô của anh Nguyễn Thế V vào ngày 30/04/2023 tại thôn Đ, xã Đ, huyện B, tỉnh H và trộm cắp tài sản 01 (Một) chiếc máy tính xách tay ở huyện V, tỉnh Bắc Giang vào ngày 29/04/2023.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B, sau khi ghi nhận lời khai báo của T1, đã thông báo với công an xã Đ, huyện B để xác nhận sự việc và thông báo cho cơ quan điều tra Công an huyện V, tỉnh Bắc Giang về hành vi trộm cắp tài sản của Đặng Văn T1.

Đối với hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của T1 đã xác định được như sau: Vào khoảng 19 giờ ngày 30/4/2023, T1 đi đến nhà anh Nguyễn Thế V, chơi, lúc đó trong nhà có anh V, ông Lý Văn Đ (bố vợ anh V) đang ăn cơm uống rượu, thấy T1 đến, anh V mời T1 vào ăn cơm, uống rượu cùng. Đến khoảng 21 giờ 00 phút cùng ngày, T1 rủ anh V, ông Đ đi chơi bi-a, anh V đồng ý và điều khiển xe mô tô BKS: 22K8 - xxxxx, nhãn hiệu: HONDA, màu sơn đỏ đen xám chở T1 và ông Đ đi đến quán B1-a nhà anh Nguyễn Việt H2, trú cùng thôn với anh V để chơi bi-a. Khi đang chơi bi-a, T1 nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe mô tô của anh V nên T1 nói dối với anh V là cho T1 mượn xe mô tô đi về nhà anh V để lấy sạc điện thoại di động để quên ở nhà anh V, do tin tưởng T1 nên anh V đồng ý đưa chìa khóa xe mô tô cho T1 để đi về nhà lấy sạc. Sau khi nhận được xe mô tô BKS: 22K8 - xxxxx, T1 không đi về nhà anh V mà điều khiển xe mô tô ra thị trấn V chơi và không về nhà ở thôn Đ, xã Đ, cũng không liên hệ gì với V. Khoảng 10 ngày sau, T1 bán chiếc xe mô tô lấy được của anh V cho một người đàn ông không quen biết (T1 không biết tên tuổi, địa chỉ cụ thể) được số tiền 4.500.000 đồng (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng), T1 đã chi tiêu cá nhân hết. Sau khi bị mất tài sản, anh V đã gọi điện thoại cho T1 nhưng không liên lạc được, đến nhà tìm nhưng T1 không có nhà, đã đi tìm T1 nhiều nơi nhưng vẫn không thấy T1 và chưa trình báo sự việc với cơ quan chức năng. Đến ngày 08/06/2023 nhận được thông báo của Công an xã Đ thì V đã trình báo sự việc trên với Công an xã Đ và đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

Đối với hành vi trộm cắp tài sản 01 (Một) chiếc máy tính xách tay ở huyện V, tỉnh Bắc Giang vào ngày 29/04/2023 của T1. T1 khai đã gửi tài sản trộm được ở nhà chị Bùi Thị M2, khi gửi T1 không nói cho M2 biết đó là tài sản do T1 trộm cắp được. Ngày 03/06/2023, chị M2 đã tự nguyện giao nộp 01 (Một) máy tính xách tay, nhãn hiệu: emachines, màu đen, máy cũ, đã qua sử dụng kèm theo 01 dây sạc màu đen, ổ cắm màu trắng cho Cơ quan CSĐT Công an huyện B. Cơ quan CSĐT Công an huyện B chuyển chiếc máy tính cho Cơ quan CSĐT Công an huyện V, tỉnh Bắc Giang tiếp nhận, thụ lý giải quyết theo thẩm quyền.

Bị hại Phạm Duy M1 và bị hại Nguyễn Thị Thu H1 khai nhận chiều tối ngày 29/05/2023 Đặng Văn T1 đến chơi, ăn cơm và ngủ lại. Sáng ngày hôm sau thì T1 đi về không chào ai, sau khi T1 về thì phát hiện bị mất trộm các tài sản gồm gồm 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Iphone 6s Plus màu vàng gold và 01 con lợn bằng sứ màu đỏ gốm sứ màu đỏ, ánh nhũ mắt màu vàng bên trong có đựng khoảng 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng), số tài sản bị mất là của vợ chồng anh Phạm Duy M1 và chị Nguyễn Thị Thu H1. Tuy nhiên, T1 chỉ thừa nhận trong con lợn lấy trộm của nhà anh M1 và chị H1 chỉ có 1.001.000 đồng. Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT đã tiến hành đối chất, bị hại không đưa được tài liệu chứng cứ rõ ràng về việc trong con lợn bị mất trộm có 20.000.000 đồng nên không có căn cứ để xác định T1 đã trộm được 20.000.000 đồng trong con lợn.

Ngày 02/06/2023, anh Phan Anh T3 đã tự nguyện giao nộp cho Cơ quan CSĐT Công an huyện B 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu Iphone 6 đã mua của Đặng Văn T1.

Ngày 02/06/2023, Lù Văn N (sinh năm 1998) là chủ khách sạn H3 đã tự nguyện giao nộp 01 (một) xe mô tô BKS 29Y5-xxxxx, 01 (một) hóa đơn bán hàng ghi số tiền hát và tiền phòng nghỉ của khách sạn H3, dịch vụ ăn nghỉ- karaoke cho Cơ quan CSĐT Công an huyện B, tỉnh H.

Tại bản kết luận định giá số 26/KL-HĐĐGTS ngày 09/06/2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B kết luận: 01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu: Iphone 6s Plus, màn hình cảm ứng có nhiều vết nứt, vỏ màu vàng gold, số IMEI: 3586070734343292, điện thoại cũ đã qua sử dụng, mua lại tháng 02/2022. Tại thời điểm định giá có giá trị là: 1.270.000 đồng (một triệu hai trăm bảy mươi nghìn đồng); 01 (một) con lợn làm bằng gốm sứ, màu đỏ, ánh nhũ màu vàng (lợn dùng để tiền tiết kiệm) có kích thước 20cm x 10cm, mua từ tháng 01/2022. Tại thời điểm định giá có giá trị là: 80.000 đồng (tám mươi nghìn đồng); 01 (Một) xe mô tô BKS: 22K8 - xxxxx, nhãn hiệu: HONDA, loại xe nữ, màu sơn: Đỏ đen xám, số máy: C12E-1655382, số khung: 12059Y558244, xe đăng ký lần đầu ngày 17/01/2009, xe cũ, đã qua sử dụng. Tại thời điểm định giá có giá trị là: 8.000.000 đồng (tám triệu đồng).

Tại Cáo trạng số 59/CT-VKSBQ ngày 29/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh H truy tố bị cáo Đặng Văn T1 về các tội: Trộm cắp tài sản, theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự và T5 lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B vẫn giữ nguyên quan điểm về tội danh đã truy tố đối với bị cáo Đặng Văn T1 theo bản cáo trạng.

- Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 38, Điều 50, điềm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Văn T1 từ 07 (B) đến 09 (Chín) tháng tù.

- Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 174, Điều 38, Điều 50, điểm s, r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Văn T1 từ 09 (Chín) tháng đến 12 (Mười hai) tháng tù.

- Đề nghị áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 16 (Mười sáu) tháng đến 21 (Hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, ngày 02/6/2023.

- Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và án phí, đề nghị HĐXX giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Đặng Văn T1 thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, nhất trí với bản luận tội của Kiểm sát viên và lời nói sau cùng của bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Viện kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên của huyện B trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định. Giai đoạn điều tra cũng như tại phiên toà những người tham gia tố tụng trong vụ án không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Do đó các chứng cứ, tài liệu đã thu thập có trong hồ sơ vụ án là hợp pháp.

[2] Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt và người làm chứng vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào Điều 292, 293 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[3] Về căn cứ định tội, định khung hình phạt: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, bị cáo khai nhận: Vào khoảng 06 giờ 30 phút ngày 30/05/2023, bị cáo lén lút chiếm đoạt 01 (một) chiếc điện thoại di động, nhãn hiệu Iphone 6s Plus, màn hình cảm ứng có giá trị 1.270.000đ (Một triệu hai trăm bảy mươi nghìn đồng); 01 (một) con lợn làm bằng gốm sứ (lợn dùng để tiền tiết kiệm) có giá trị 80.000đ (T6 mươi nghìn đồng), bên trong con lợn có 1.001.000đ (Một triệu không trăm lỉnh một nghìn đồng) của gia đình anh Phạm Duy M1 và chị Nguyễn Thị Thu H1. Tổng tài sản T1 trộm cắp là 2.351.000đ (Hai triệu ba trăm năm mươi mốt nghìn đồng). Quá trình điều tra, bị cáo khai nhận: Vào khoảng 21 giờ ngày 30/04/2023 tại quán B1-a nhà anh Nguyễn Việt H2 thuộc thôn T, xã Đ, huyện B, bị cáo thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt 01 chiếc xe mô tô BKS 22K8 - xxxxx, nhãn hiệu HONDA, loại xe nữ, màu sơn đỏ đen xám, trị giá là 8.000.000đ (Tám triệu đồng) của anh Nguyễn Thế V. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai nhận tội trong quá trình điều tra, với lời khai của bị hại và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Như vậy có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Đặng Văn T1 phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 nên Viện kiểm sát nhân dân huyện B truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo như nêu trên đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn huyện. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức về hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng do cần tiền tiêu sài nên bị cáo đã cố ý thực hiện.

[5] Về tình tiết định khung hình phạt: Hành vi của bị cáo không vi phạm các tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự, bị cáo chỉ bị xét xử theo quy định tại khoản 1 Điều 173 và khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân bị cáo: Bị cáo không vi phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Đối với tội trộm cắp, bị cáo ra đầu thú và trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, bị cáo tự thú và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. về nhân thân bị cáo trước khi thực hiện hai hành vi phạm tội trên, vào ngày 29/4/2023 bị cáo đã thực hiện hành vi chiếm đoạt chiếc máy tính sách tay tại huyện V, tỉnh Bắc Giang và đã bị Tòa án nhân dân huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang xét xử tại bản án hình sự sơ thẩm số: 161/2023/HS-ST, ngày 23/9/2023.

[7] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 173, khoản 5 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị cáo với các bị hại đã thỏa thuận với nhau về việc bồi thường thiệt hại và đề nghị Tòa án ghi nhận, theo đó: Bị cáo Đặng Văn T1 bồi thường thiệt hại cho chị Nguyễn Thị Thu H1 và anh Phạm Duy M1 số tiền 1.081.000đ (Một triệu không trăm tám mươi mốt nghìn đồng. Bị cáo Đặng Văn T1 bồi thường thiệt hại cho anh Nguyễn Thế V số tiền 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng). Xét thấy, việc thỏa thuận bồi thường thiệt hại giữa bị cáo với các bị hại là hoàn toàn tự nguyện, nội dung thỏa thuận không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên cần được công nhận.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là anh Phan Anh T3 yêu cầu bị cáo Đặng Văn T1 hoàn trả số tiền do mua phải tài sản trộm cắp là 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng). Xét thấy đề nghị của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên được chấp nhận.

[9] Về xử lý vật chứng: Đối với số vật chứng là các mảnh gốm sứ không có giá trị sử dụng nên cần tiêu hủy là có cơ sở.

[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Đặng Văn T1 phạm tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.

2. Hình phạt:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Văn T1 07 (B) tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 174, Điều 38, Điều 50, điểm s, r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đặng Văn T1 09 (Chín) tháng tù.

- Áp dụng Điều 55 của Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai tội là 01 (Một) năm 04 (bốn) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, ngày 02/6/2023.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng 48 của Bộ luật Hình sự; Điều 584, Điều 585, Điều 586 và Điều 589 của Bộ luật dân sự.

- Công nhận sự thỏa thuận về bồi thường thiệt hại giữa bị cáo và bị hại, cụ thể: Bị cáo Đặng Văn T1 bồi thường thiệt hại cho chị Nguyễn Thị Thu H1 và anh Phạm Duy M1 mà người đại diện là chị Nguyễn Thị Thu H1 được nhận số tiền là 1.081.000đ (Một triệu không trăm tám mươi mốt nghìn đồng). Bị cáo Đặng Văn T1 bồi thường thiệt hại cho anh Nguyễn Thế V số tiền 12.000.000đ (Mười hai triệu đồng).

- Buộc bị cáo Đặng Văn T1 bồi thường thiệt hại cho anh Phan Anh T3 số tiền là 600.000đ (Sáu trăm nghìn đồng).

Số tiền nói trên, kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu số tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.

4. về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy nhiều mảnh gốm sứ, một mặt màu đỏ, một mặt màu trắng.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng giữa cơ quan Công an huyện B và Chi cục thi hành án dân sự huyện B ngày 05/9/2023).

5. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự, điểm a, c, d khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Đặng Văn T1 phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 684.000đ (Sáu trăm tám mươi tư nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch.

6. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333, Điều 336, Điều 337 của Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo và bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án sao hoặc được niêm yết.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

64
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp, lừa đảo chiếm đoạt tài sản số 63/2023/HS-ST

Số hiệu:63/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Quang - Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về