TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 77/2023/HS-ST NGÀY 19/04/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 4 năm 2023 tại Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 70/2023/TLST-HS ngày 22 tháng 3 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 98/2023/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 4 năm 2023 đối với các bị cáo:
- Huỳnh Văn Đ, sinh năm: 1972, tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Hộ khẩu thường trú: số A đường P, Phường A, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc:Kinh; Giới tính: nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Huỳnh Văn T1, sinh năm 1950 và bà Huỳnh Thị Kim A (đã chết); Chưa có vợ; tiền sự: Không; tiền án: Không; Nhân thân: - Năm 1997 Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xử phạt 02 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Đánh bạc”, (Đã xoá án tích);- Ngày 11/3/ 2014 Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xử phạt 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (bản án số 56/2014/HSST). Tạm giữ, tạm giam ngày: 24/9/2022; (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 18/4/2021, Huỳnh Văn Đ một mình đi xe máy biển số 79L2-X đến khu vực cầu H, đường P, quận B và gặp một người phụ nữ (không rõ lai lịch) hỏi mua ma túy tổng hợp (hàng đá) với số tiền 200.000 đồng.
Sau khi mua được ma túy, Đ điều khiển xe máy đến nhà của Phạm Văn T2 tại địa chỉ: 7 đường số C, phường F, quận G rủ Phạm Văn T2 cùng sử dụng. Khi Đ cùng với Phạm Văn T2 đang sử dụng ma túy tại nhà của Phạm Văn T2 thì có Nguyễn Anh T3 đến và cùng sử dụng hết số ma túy này với Đ và Phạm Văn T2.
Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 21/4/2021, Đ tiếp tục một mình đi xe máy biển số 79L2-X đến khu vực cầu H, đường P, quận B và gặp một người phụ nữ trên hỏi mua ma túy tổng hợp (hàng đá) với số tiền 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Đ cất giấu gói nylon chứa ma túy này trong một vỏ bao thuốc lá hiệu 555 rồi để ở túi quần trước bên trái và điều khiển xe gắn máy về nhà của Phạm Văn T2. Tại nhà của Phạm Văn T2, Đ lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy của Phạm Văn T2 đang để ở dưới gầm bàn trong nhà, rồi lấy một ít ma túy trong gói nylon chứa ma túy của Đ vừa mua được bỏ vào trong bộ dụng cụ sử dụng ma túy, còn gói nylon chứa ma túy còn lại ở trong vỏ bao thuốc lá hiệu 555 Đức để lên trên bàn, rồi cùng anh Phạm Văn T2 sử dụng ma túy đã được đổ vào sẵn vào trong bộ dụng cụ. Khi Đ và anh Phạm Văn T2 đang sử dụng ma túy tại nhà của Phạm Văn T2 thì có Nguyễn Anh T3 đi xe gắn máy biển số 51M3 - X một mình đến và Nguyễn Anh T3 cũng được Đ rủ cùng sử dụng ma túy. Khi Nguyễn Anh T3, Phạm Văn T2 và Đ đang cùng nhau sử dụng ma túy tại nhà của Phạm Văn T2 thì Tổ công tác, Công an phường F, quận G đến kiểm tra nhà phát hiện thu giữ trên bàn trong nhà có một vỏ bao thuốc lá hiệu 555 đựng một gói nylon chứa ma túy tổng hợp (hàng đá) của Đ và ở dưới gầm bàn có một bình nhựa có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa, rồi bắt giữ Phạm Văn T2, đưa Nguyễn Anh T3 và Huỳnh Văn Đ đưa về Cơ quan Công an lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Phạm Văn T2. Bản thân Đ thừa nhận tự nguyện mua ma túy và mang đến nhà của Phạm Văn T2 để sử dụng cùng với Phạm Văn T2 và Nguyễn Anh T3 được hai lần vào ngày 18 và 21/4/2021 như đã khai trên, Đ không yêu cầu ai có góp tiền hay trả tiền để cùng sử dụng ma túy.
Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận G đã Kết luận điều tra vụ án hình sự số: 197/KLĐT ngày 17/9/2021 và bản Kết luận điều tra bổ sung vụ án hình sự số 197A/KLĐTBS ngày 22/11/2021 đề nghị truy tố bị can Phạm Văn T2 về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tòa án nhân dân quận Gò Vấp đã xử phạt 08 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” đối với Phạm Văn T2 theo bản án số 19/2022/HSST ngày 20/01/2022 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp và bản án số 201/2022/HSPT ngày 05/5/2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 26/4/2021 Cơ quan Cảnh sát điều tra đã ra Quyết định khởi tố bị can, ra Lệnh bắt tạm giam đối với Huỳnh Văn Đ. Tuy nhiên, bị can Đ bỏ trốn khỏi địa phương nên Cơ quan điều tra ra Quyết định truy nã và tạm đình chỉ bị can đối với Huỳnh Văn Đ.
Ngày 24/9/2022 Huỳnh Văn Đ bị Công an phường A1, quận G bắt giữ theo Quyết định truy nã số 25/QĐ ngày 18/11/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an quận G.
Quá trình điều tra, bị can Huỳnh Văn Đ đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như trên, nội dung lời khai của Huỳnh Văn Đ phù hợp với lời khai của Nguyễn Anh T3 và Phạm Văn T2 cùng các tài liệu khác do Cơ quan điều tra đã thu thập được.
Đối với 0,0680 gam, loại Methamphetamine do Huỳnh Văn Đ mua đến để sử dụng, chưa đủ định lượng nên không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với Đ về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.
Đối với người phụ nữ bán ma tuý cho Đ, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch của người này, Cơ quan Cảnh sát điều tra sẽ tiếp tục áp dụng các biện pháp điều tra xác minh, khi nào xác định được lai lịch, có đủ tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội sẽ đề nghị xử lý sau theo quy định của pháp luật.
Đối với Nguyễn Anh T3 không tham gia góp tiền mua ma túy, chỉ có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại nơi ở của Phạm Văn T2, nên Cơ quan điều tra đã chuyển xử lý hành chính đối với Nguyễn Anh T3.
Vật chứng của vụ án:
Đối với một số vật chứng thu giữ gồm: Một vỏ bao thuốc lá hiệu 555 đựng 01 gói nylon bên trong chứa tinh thể không màu, đã niêm phong thành một gói, bên ngoài có chữ ký ghi tên Huỳnh Văn Đ và hình dấu của Công an phường F, quận G;
01 bình nhựa có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa; 01 điện thoại di động hiệu Oppo, số sim : 092X571; Một xe gắn máy biển số: 79L2 - X, số khung: LC6TCJC7660800289, số máy: 1520MI95(-) 2698 (một số không rõ). Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an quận G đã nhập kho vật chứng và được xử lý tại bản án số 19/2022/HSST ngày 20/01/2022 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp và bản án số 201/2022/HSPT ngày 05/5/2022 của Tòa án nhân dân TP . Hồ Chí Minh.
Tại bản cáo trạng số 72/CTr-VKS, ngày 15/3/2023 Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp đã truy tố Huỳnh Văn Đ về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên toà hôm nay, Đại diện Viện kiểm sát sau khi luận tội và đưa ra quan điểm xét xử đã đề nghị: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017;
- Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn Đ từ 07 năm đến 07 năm 6 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
- Miễn phạt bổ sung cho bị cáo.
Về vật chứng đã được xử lý tại bản án số 19/2022/HSST ngày 20/01/2022 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp và bản án số 201/2022/HSPT ngày 05/5/2022 của Tòa án nhân dân TP . Hồ Chí Minh.
Tại phiên tòa hôm nay khi nói lời sau cùng, bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là sai trái, là vi phạm pháp luật nên không cần phải tranh luận, không bào chữa cho hành vi phạm tội của mình mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm mức án nhẹ nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với kết luận điều tra của Công an quận G, cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp, biên bản phạm pháp quả tang và tang vật thu giữ, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác thu thập được trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình Điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.
Đối chiếu với các Điều luật tương ứng do Bộ luật Hình sự quy định, Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để cho rằng hành vi của Huỳnh Văn Đ đã phạm vào tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt trừng trị được quy định tại Điều 255 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;
[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi lẽ hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến sự quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, đã xâm phạm và làm ảnh hưởng đến chính sách quản lý kinh tế, an ninh quốc gia, gây mất trật tự trị an xã hội. Mặc dù bị cáo nhận thức được việc tàng trữ, tổ chức, sử dụng..... trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, bị pháp luật nghiêm cấm và nếu vi phạm sẽ bị trừng trị nghiêm khắc, nhưng bị cáo vẫn ngang nhiên tàng trữ trái phép chất ma tuý và rủ rê tổ chức cho nhiều người cùng sử dụng ma túy bất chấp những quy định của pháp luật, bất chấp mọi hậu quả xảy ra kể cả việc trừng trị của pháp luật. Hành vi của bị cáo đã tiếp tay duy trì sự mất ổn định trật tự xã hội, duy trì và tạo điều kiện cho các tệ nạn xã hội phát triển làm ảnh hưởng đến việc giảm sút sức lao động trong toàn xã hội. Bị cáo đã cung cấp ma túy cho 02 người sử dụng nên Viện kiểm sát nhân dân quận G truy tố bị cáo theo điểm b khoản 2 Điều 255 là có cơ sở. Vì vậy, cần thiết phải có mức hình phạt thật nghiêm khắc đối với bị cáo và cần thiết phải có một khoảng thời gian dài cách ly bị cáo ra khỏi xã hội nhằm tạo điều kiện cho bị cáo từ bỏ con đường nghiện ngập và tiếp tục học tập phấn đấu trở thành người tốt hơn sau này biết tôn trọng pháp luật đồng thời cũng nhằm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.
[3] Tuy nhiên khi lượng hình cần xem xét các tình tiết, tại Cơ quan điều tra cũng như qua diễn biến phiên toà hôm nay bị cáo đã thật thà khai báo thành khẩn nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải, gia đình và bản thân bị cáo thuộc thành phần lao động nghèo để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo mà lẽ ra bị cáo phải chịu.
[4] Về hình phạt bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 255 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung 2017. Hội đồng xét tính chất vụ án và hoàn cảnh của bị cáo nên quyết định miễn phạt cho bị cáo.
[5] Về xử lý vật chứng:
- Đối với một số vật chứng thu giữ gồm: Một vỏ bao thuốc lá hiệu 555 đựng 01gói nylon bên trong chứa tinh thể không màu, đã niêm phong thành một gói, bên ngoài có chữ ký ghi tên Huỳnh Văn Đ và hình dấu của Công an phường F, quận G; 01 bình nhựa có gắn nỏ thủy tinh và ống hút nhựa; 01 điện thoại di động hiệu Oppo, số sim : 092X571; Một xe gắn máy biển số: 79L2 - X, số khung: LC6TCJC7660800289, số máy: 1520MI95(-) 2698 (một số không rõ). Cơ quan cảnh sát điều tra, Công an quận G đã nhập kho vật chứng và được xử lý tại bản án số 19/2022/HSST ngày 20/01/2022 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp và bản án số 201/2022/HSPT ngày 05/5/2022 của Tòa án nhân dân TP . Hồ Chí Minh. Nên tại phiên tòa hôm nay không đưa ra xem xét lại.
[6] Đối với người phụ nữ bán ma tuý cho Đ, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch của người này, Cơ quan Cảnh sát điều tra sẽ tiếp tục áp dụng các biện pháp điều tra xác minh, khi nào xác định được lai lịch, có đủ tài liệu chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội sẽ đề nghị xử lý sau theo quy định của pháp luật.
Đối với Nguyễn Anh T3 không tham gia góp tiền mua ma túy, chỉ có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy tại nơi ở của Phạm Văn T2, nên Cơ quan điều tra đã chuyển xử lý hành chính đối với Nguyễn Anh T3 là có cơ sở.
[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Huỳnh Văn Đ phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị Huỳnh Văn Đ 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù được tính kể từ ngày 24/9/2022.
Áp dụng khỏan 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và Lệ phí, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án;
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính kể từ ngày tuyên án.
Căn cứ Điều 26 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014); thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi bổ sung năm 2014).
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 77/2023/HS-ST
Số hiệu: | 77/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/04/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về