Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 68/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 68/2024/HS-ST NGÀY 28/02/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 02 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 51/2024/TLST-HS ngày 05 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 48/2024/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 02 năm 2024, đối với các bị cáo:

1. Trần Quốc C, sinh năm 1995 tại tỉnh Nghệ An. Thường trú: xóm F, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: lớp 6/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Công giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Quốc M, sinh năm 1973 và bà Phan Thị T, sinh năm 1973; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân:

- Ngày 30/8/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An tuyên phạt 3 tháng 04 ngày tù về tội “Cố ý gây thương tích”, được trả tự do tại phiên tòa, đóng án phí vào ngày 14/7/2022.

- Ngày 26/4/2018 bị Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An tuyên phạt 2 năm 6 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đã chấp hành xong, đóng án phí ngày 12/6/2018.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/4/2023 đến nay, có mặt.

2. Đoàn Văn H, sinh năm 1993 tại tỉnh Nghệ An. Thường trú: xóm C, xã T, huyện Đ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: lớp 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đoàn Văn M1, sinh năm 1967 và bà Hoàng Thị T1, sinh năm 1968; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/4/2023 đến nay, có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

3. Nguyễn Văn L, sinh năm 1993 tại tỉnh Nghệ An. Thường trú: xóm C, xã T, huyện Đ, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: lớp 10/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H1 và bà Vũ Thị N; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/4/2023 đến nay, có mặt.

4. Hoàng Văn T2, sinh năm 1993 tại tỉnh Nghệ An. Thường trú: xóm G, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Cơ khí; trình độ học vấn: lớp 10/12; dân tộc: Thái; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn L1, sinh năm 1963 và bà Ngân Thị T3, sinh năm 1964; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 26/6/2018, bị Ủy ban nhân dân phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000 đồng về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác, đã đóng phạt vào ngày 09/7/2018.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/4/2023 đến nay, có mặt.

5. Nguvễn Trạch S, sinh năm 1987 tại tỉnh Nghệ An. Thường trú: xóm R, xã T, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: lớp 07/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trạch D (đã chết) và bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1968; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự, nhân thân: không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/4/2023 đến nay, có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Phùng Thiết H3, sinh năm 1979. Địa chỉ: số F, tổ B, khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương, có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Ông Trần Đình T4, sinh năm 1993, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoàng Văn T2, Nguyễn Văn L, Đoàn Văn H, Trần Quốc C và Nguyễn Trạch S quen biết nhau và đều là đối tượng sử dụng trái phép chất ma tuý loại (Methamphetamine) từ năm 2022. Hoàng Văn T2, Nguyễn Văn L, Đoàn Văn H là bạn bè và sống chung với nhau tại phòng trọ số 4, địa chỉ: số F, khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương từ tháng 3 năm 2023 cho đến nay. Vào khoảng 17 giờ ngày 21/4/2023, L, T2, H đang ở phòng trọ số 4 địa chỉ: số F, khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương thì có C đến chơi. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, thì có S là bạn của T2 đến phòng trọ của T2 chơi. Lúc này trong phòng có 05 người gồm T2, L, H, C và S. Do có nhu cầu sử dụng ma tuý đá nên S rủ C góp tiền mua ma tuý về sử dụng thì C đồng ý. Sau đó, S sử dụng điện thoại di động nhãn hiệu Vivo màu đen, sim số 0979.178.xxx chuyển khoản từ số tài khoản 0501239111xx vào số tài khoản 10211083xx của C số tiền 100.000 đồng để C đi mua ma tuý. C bỏ ra số tiền 200.000 đồng rồi đón xe G đi đến khu vực con hẻm gần vòng xoay A, thuộc phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương gặp một người đàn ông tên G1 (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 300.000 đồng ma tuý đá, được bảo quản trong một gói nylon hàn kín. Sau khi mua được ma tuý, C đón xe quay lại phòng trọ và đổ một phần ma tuý vào bộ dụng cụ do T2 làm và để T2 đốt lên cho H, C, S, L và T2 cùng sử dụng, số ma tuý còn lại, C đưa cho T2. Sau đó, T2 tiếp tục đổ phần ma tuý còn lại vào nỏ thủy tinh, rồi đốt lên cho tất cả cùng sử dụng bằng cách hút vào cơ thể. Khi C, S, T2, L và H đang sử dụng ma tuý đá thì có Trần Đình T4 là bạn của L đến chơi, thấy 05 người đang sử dụng ma tuý thì T4 cũng vào sử dụng chung (việc T4 sử dụng ma tuý thì không có ai ngăn cản và tất cả đều đồng ý cho T4 sử dụng). Đến khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, thì cả nhóm không sử dụng nữa mà ngồi nói chuyện. Lúc này, trong nỏ thủy tinh còn một ít ma tuý đá thì T2 lấy bộ dụng cụ sử dụng ma tuý nêu trên bỏ vào ngăn kéo phía ngoài chiếc balo của H đang treo ở vách tường đối diện cửa ra vào (không kéo dây khóa) nhìn thấy được. Đến khoảng 21 giờ 00 phút cùng ngày, lực lượng Công an phường A phối hợp với Đội Cảnh sát Kinh tế - Ma túy Công an thành phố D kiểm tra. Quá trình kiểm tra, lực lượng Công an phát hiện bộ dụng cụ sử dụng ma tuý, trong nỏ thủy tinh còn một ít chất màu nâu. C, S, T2, L, H cùng T4 đều khai nhận chất màu nâu trong nỏ thủy tinh là ma tuý đá còn lại sau khi 06 người vừa sử dụng xong nên lực lượng Công an lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và lập hồ sơ chuyển giao Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D, tỉnh Bình Dương xử lý.

* Kết luận giám định số 219/KL-KTHS(MT) ngày 25/4/2023 của Phòng K Công an tỉnh B, kết luận như sau: Chất màu nâu trong 01 (một) nỏ thủy tinh gửi giám định là ma tuý, loại Methamphetamine, có khối lượng/trọng lượng: 0,0405 gam.

* Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 (một) nỏ thủy tinh chứa chất màu nâu là ma tuý, loại Methamphetamine, có khối lượng/trọng lượng M = 0,0405 gam.

- 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma tuý gồm: chai nhựa, nắp nhựa gắn ống hút nhựa là dụng cụ dùng để sử dụng ma tuý.

- 01 (một) điện thoại hiệu Iphone 7 Plus màu bạc, sim số 0923.062.867 thu giữ của Trần Quốc C.

- 01 (một) điện thoại hiệu Vivo màu đen, sim số 0979.178.xxx thu giữ của Nguyễn Trạch S.

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với một nỏ thủy tinh, chai nhựa, nắp nhựa gắn ống hút nhựa các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với điện thoại hiệu Iphone 7 Plus màu bạc, sim số 0923.062.867 thu giữ của Trần Quốc C, C sử dụng điện thoại vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu nộp ngân sách Nhà nước đối với điện thoại di động và tịch thu tiêu hủy đối với sim điện thoại số 0923.062.867.

- Đối với điện thoại hiệu điện thoại hiệu Vivo màu đen, sim số 0979.178.xxx thu giữ của Nguyễn Trạch S, S sử dụng điện thoại vào việc phạm tội nên đề nghị tịch thu nộp ngân sách Nhà nước đối với điện thoại di động và tịch thu tiêu hủy đối với sim điện thoại số 0979.178.xxx.

* Đối với anh Phùng Thiết H3 là chủ nhà trọ, anh H3 cho Đoàn Văn H, Hoàng Văn T2 và Nguyễn Văn L thuê trọ phòng trọ số 4 địa chỉ: số F, khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương, anh H3 không biết việc H, L và H sử dụng phòng trọ để tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D không đề nghị xử lý.

* Đối với người đàn ông tên G1 bán ma túy cho Trần Quốc C tại vòng xoay A thuộc phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D đang tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

* Đối với Trần Đình T4 sử dụng trái phép chất ma tuý, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố D đã ra quyết định xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý theo khoản 1, Điều 23 Nghị định 144/NĐ-CP của Chính phủ.

Tại Cáo trạng số: 77/CT-VKS-DA ngày 05 tháng 02 năm 2024, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Trần Quốc C, Đoàn Văn H, Nguyễn Văn L, Hoàng Văn T2, Nguyễn Trạch S về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Quốc C với mức án từ 07 năm 09 tháng đến 08 năm tù.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đoàn Văn H với mức án từ 07 năm 03 tháng đến 07 năm 06 tháng tù.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L với mức án từ 07 năm 03 tháng đến 07 năm 06 tháng tù.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T2 với mức án từ 07 năm 06 tháng đến 07 năm 09 tháng tù.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trạch S với mức án từ 07 năm 03 tháng đến 07 năm 06 tháng tù.

* Về xử lý vật chứng:

- Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư được niêm phong ghi số 219/PC09 chứa 01 (một) nỏ thủy tinh; 01 (một) chai nhựa, nắp nhựa gắn ống hút nhựa; các sim số điện thoại: 09230628xx, 09791780xx.

- Đề nghị tịch thu nộp ngân sách Nhà nước đối với: 01 (một) điện thoại hiệu Iphone 7 plus màu bạc, 01 (một) điện thoại hiệu Vivo màu đen.

* Bị cáo Đoàn Văn H có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt và trình bày ý kiến: Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo. Bị cáo mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

Các bị cáo không tranh luận, trong lời nói sau cùng các bị cáo Trần Quốc C, Nguyễn Văn L, Hoàng Văn T2, Nguyễn Trạch S thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An đã truy tố đối với các bị cáo. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với những tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: khoảng 17 giờ 30 phút ngày 21/4/2023, tại phòng trọ số 4 địa chỉ: số F, khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh Bình Dương các bị cáo Trần Quốc C, Đoàn Văn H, Nguyễn Văn L, Hoàng Văn T2, Nguyễn Trạch S đã có hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Hành vi của bị cáo Trần Quốc C và bị cáo Nguyễn Trạch S bàn bạc rủ rê và góp tiền để mua ma túy về cho các bị cáo về cùng sử dụng, bị cáo S góp số tiền 100.000 đồng còn bị cáo C góp 200.000 đồng, bị cáo C là người trực tiếp đi mua ma túy. Hành vi của bị cáo C và bị cáo S góp tiền mua ma túy và cung cấp ma túy cho C, H, L, T2, S, T4 cùng đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung “Đối với 02 người trở lên” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự. Hành vi của bị cáo T2 cung cấp dụng cụ để sử dụng ma túy, hành vi của bị cáo T2, L, H cung cấp địa điểm (phòng trọ số 4 do các bị cáo thuê) cho C, H, L, T2, S, T4 cùng đưa trái phép chất ma túy vào cơ thể đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” với tình tiết định khung “Đối với 02 người trở lên” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Cáo trạng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo với tội danh, điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hội đồng xét xử xét thấy, đây là vụ án có tính đồng phạm giản đơn, không có sự cấu kết chặt chẽ, không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể khi thực hiện hành vi phạm tội nên các bị cáo đều phải chịu trách nhiệm hình sự như nhau về hành vi của mình.

[4] Hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện là rất nghiêm trọng và nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý các chất gây nghiện của Nhà nước. Về nhận thức, các bị cáo biết ma túy (Methamphetamine) là loại chất gây nghiện nguy hiểm do Nhà nước độc quyền và thống nhất quản lý. Các bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nhận thức rõ hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, để có tác dụng tuyên truyền, giáo dục ý thức tuân theo pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm cần phải cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với các bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.

[5] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo không có.

[6] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo.

[7] Về nhân thân:

- Đối với bị cáo Trần Quốc C:

+ Ngày 30/8/2016, bị Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An tuyên phạt 3 tháng 04 ngày tù về tội “Cố ý gây thương tích”, được trả tự do tại phiên tòa (đã chấp hành xong).

+ Ngày 26/4/2018, bị Tòa án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An tuyên phạt 2 năm 6 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, (đã chấp hành xong).

- Đối với bị cáo Trần Văn T5: Ngày 26/6/2018, bị Ủy ban nhân dân phường M, thị xã B, tỉnh Bình Dương ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 2.500.000 đồng về hành vi xâm hại sức khỏe của người khác (đã chấp hành xong).

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) bì thư được niêm phong ghi số 219/PC09 chứa 01 (một) nỏ thủy tinh; 01 (một) chai nhựa, nắp nhựa gắn ống hút nhựa và các sim số điện thoại: 09230628xx, 09791780xx. Xét thấy, đây là công cụ, phương tiện phạm tội không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 (một) điện thoại hiệu Iphone 7 plus màu bạc, 01 (một) điện thoại hiệu Vivo màu đen. Xét thấy, đây là công cụ, phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

[9] Xét đề nghị Viện Kiểm sát về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Trạch S là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Xét đề nghị Viện Kiểm sát về hình phạt đối với bị cáo Trần Quốc C, Đoàn Văn H, Nguyễn Văn L, Hoàng Văn T2 là nặng nên Hội đồng xét xử sẽ quyết định mức hình phạt đối với các bị cáo nhẹ hơn mức đề nghị của đại diện đại diện Viện Kiểm.

[10] Án phí sơ thẩm: các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 298, 299, 326, 327, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tuyên bố bị cáo Trần Quốc C, Đoàn Văn H, Nguyễn Văn L, Hoàng Văn T2, Nguyễn Trạch S phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

1. Về hình phạt:

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Quốc C 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/4/2023.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Đoàn Văn H 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án. Bị cáo được tính trừ thời gian tạm giữ, tạm giam kể từ ngày 21/4/2023 đến ngày 22/02/2024.

Tiếp tục duy trì Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 05/2024/HSST- LCĐKNCT ngày 25 tháng 02 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đối với bị cáo Đoàn Văn H.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/4/2023.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T2 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/4/2023.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 và Điều 58 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trạch S 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/4/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư được niêm phong ghi số 219/PC09 chứa 01 (một) nỏ thủy tinh; 01 (một) chai nhựa, nắp nhựa gắn ống hút nhựa; các sim số điện thoại: 09230628xx, 09791780xx.

- Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước đối với: 01 (một) điện thoại hiệu Iphone 7 Plus màu bạc, 01 (một) điện thoại hiệu Vivo màu đen.

(Theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 11/10/2023, giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố D với Chỉ cục thi hành án dân sự thành phố Dĩ An)

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Quốc C, Đoàn Văn H, Nguyễn Văn L, Hoàng Văn T2, Nguyễn Trạch S mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng.

4. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

19
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 68/2024/HS-ST

Số hiệu:68/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về