Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 237/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 237/2023/HS-PT NGÀY 12/04/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh TQ, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 1096/2022/TLPT-HS ngày 08 tháng 11 năm 2022 đối với bị cáo Đinh Văn T phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2022/HS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh TQ.

- Bị cáo có kháng cáo:

Đinh Văn T (tên gọi khác: Không), sinh ngày 12/4/1991.

Nơi đăng ký HKTT: Thôn 24, xã K, thành phố TQ, tỉnh TQ. Chỗ ở: Thôn 17, xã K, thành phố TQ, tỉnh TQ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12. Chức vụ Đảng, đoàn thể: Không; con ông Đinh Văn D (đã chết) và bà Phạm Thị X; vợ: Hoàng M H; con: có 01 con 2017; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/4/2022; hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh TQ.

* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Trần Văn L – Văn phòng luật sư số V, thuộc Đoàn luật sư tỉnh V; địa chỉ: Tổ 5 phường A, thành phố TQ, tỉnh TQ.

Ngoài ra trong vụ án còn 05 bị cáo không kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 09/4/2022, Phương Văn T, Nguyễn Duy S, Trần Văn Q, Đinh Văn T cùng ở xã K, thành phố TQ, tỉnh TQ; Trần Văn Qnh, trú thôn C, xã H, huyện Y; Triệu Mùi L, sinh ngày 28/6/2004, trú tại thôn C, xã Q, huyện X, tỉnh H đã có hành vi “tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và Lâm Thanh T, trú tổ 11, phường A, thành phố TQ đã có hành vi “mua bán trái phép chất ma túy”, tại thôn C, xã H, huyện Y, tỉnh TQ, cụ thể:

Khoảng 18 giờ ngày 09/4/2022, T, S, Q, T và Ma Văn M (sinh năm 1992, trú tại thôn 22, xã K, thành phố TQ) cùng đến nhà ông Trần Văn Sáng ở thôn 16, xã K, thành phố TQ dự đám cưới; sau khi ăn cỗ cưới xong S, Q, T ra bàn ngồi uống nước, tại đây T rủ Sơn và Q đi hát karaoke, khi đi ra đến cửa rạp đám cưới thì gặp Tú và M, nên T đã rủ thêm Tú và M đi hát cùng, thấy thế Tú nói “Giờ này ai còn đi hát nữa, đi hát rồi đi bay luôn, mỗi người cốp 2.000.000đ”, ý là bảo cả nhóm đi hát và sử dụng ma túy tổng hợp, mỗi người góp 2.000.000 đồng; nghe Tú nói, Sơn đã đồng T và nói “Tài khoản em chỉ còn có một triệu rưỡi, thừa thiếu em bù sau” và Tú đưa luôn cho Sơn 2.000.000 đồng để góp mua ma túy, còn Q, T, M không góp tiền và cũng không có ý kiến gì, thấy thế Sơn đã trả lại 2.000.000 đồng cho T, rồi cả nhóm thống nhất đi hát tại Quán Karaoke HM của Trần Văn Qnh ở thôn C, xã H, huyện Y (Sơn và Q đi xe mô tô BKS 22B2-731.48 của Sơn; M và Tú đi xe mô tô BKS 22B1-996.55 của Tú; T đi một mình bằng xe mô tô của T, BKS 22B2-353.16). Trên đường đi, Sơn nói với Q về việc góp tiền mua ma túy để cùng sử dụng, mỗi người góp 2.000.000 đồng, nhưng Q nói không có tiền và Sơn bảo“Em có xe mà”, ý là nếu cần sẽ cầm cố xe mô tô để lấy tiền mua ma túy.

Khi đến Quán Karaoke HM, cả nhóm ngồi ở ghế sô pha cạnh quầy lễ tân ở tầng một, trong lúc đợi lấy phòng hát thì Tú nói với S, Q, T mỗi người góp 2.000.000 đồng để mua ma túy tổng hợp về sử dụng, mọi người nhất trí (M không tham gia và cũng không biết việc này). Sau đó, Q và Sơn đi đến quầy lễ tân hỏi Tuấn A “Có biết chỗ nào bán đồ không’’, ý là hỏi biết chỗ bán ma túy tổng hợp không, Tuấn A hiểu ý và cũng muốn sử dụng ma túy cùng, nên trả lời “Để từ từ, hỏi xem đã, mua được thì tao lên chơi với” và Sơn đồng ý (lúc này Tú ngồi ở gần nên nghe rõ nội dung trao đổi giữa Q, Sơn và Tuấn A, còn M ngồi ở xa nên không tham gia). Quay lại ghế sô pha, Sơn bảo T đọc số tài khoản, rồi sử dụng điện thoại di động chuyển 1.500.000 đồng từ số tài khoản của mình 0432129696 mở tại MBbank đến số tài khoản 1019880192 của T mở tại Vietcombank; chuyển tiền xong Sơn bảo với T số tiền thiếu sẽ tính sau. Còn Q bảo Tuấn A gọi hộ 05 nhân viên đến phục vụ rót bia, Tuấn A đồng ý và bảo cả nhóm đi lên Phòng hát số 04 ở tầng hai; sau đó, Tuấn A gọi điện cho Chu Kiều Hưng (sinh năm 1987, trú tại tổ 2, phường A, thành phố TQ) nói Hưng cho 05 nhân viên đến Quán Karaoke của mình phục vụ rót bia cho khách.

Khoảng 20 phút sau, Tuấn A đem đồ uống lên Phòng hát số 04, Sơn tiếp tục hỏi Tuấn A về việc mua ma túy tổng hợp, tại đây Tuấn A đã dùng điện thoại của mình số thuê bao là 0327270692 gọi cho Lâm Thanh T1 (lưu tên trong điện thoại là “T1 Bâu”) số thuê bao là 0978406689 và hỏi “Anh có mấy người bạn đang hát ở đây, có biết chỗ nào bán ke, kẹo thì mua hộ anh để bọn anh chơi”, T1 trả lời “Ok để em xem”. Một lúc sau T1 gọi điện lại cho Tuấn A nói “Lấy như thế nào”, thấy thế Tuấn A đã tắt máy nghe nhạc trong phòng và hỏi nhóm Q, T, S, T mua số lượng ma túy như nào, Sơn nói lấy 04 viên ma túy Kẹo, 01 chỉ ma túy Ke (lúc này M đi sang Phòng hát số 02 giao lưu với người quen, nên không biết việc mua ma túy trên); Tuấn A báo lại với T1 số lượng ma túy cần mua, T1 nói giá bán ma túy Kẹo là 400.000 đồng 01 viên, ma túy Ke là 4.000.000 đồng 01 chỉ (tổng số tiền là 5.600.000 đồng) và bảo chuyển tiền vào tài khoản số 0867670800 của T1 mở tại MBbank. Sau đó, Tuấn A báo lại giá tiền mua ma túy cho các đối tượng trong phòng biết, thấy thế Sơn nói với Tú “Có tiền đưa 2.000.000 đồng” và Tú đã đưa cho Sơn 2.000.000 đồng để góp mua ma túy (gồm 04 tờ tiền, mỗi tờ mệnh giá 500.000 đồng), Sơn cầm tiền đưa luôn cho T và bảo T chuyển tiền để mua ma túy, thừa thiếu sẽ tính sau; Tuấn A đọc số tài khoản của T1 cho T và T dùng điện thoại chuyển số tiền 5.600.000 đồng từ tài khoản của mình đến số tài khoản của T1 để trả tiền mua ma túy; khi T chuyển tiền xong thì Tuấn A đi xuống tầng một để phục vụ nhóm khách khác đến hát.

Khoảng 21 giờ cùng ngày, có 05 nhân viên nữ do Chu Kiều Hưng bảo đến Quán Karaoke HM để phục vụ rót bia cho khách theo đề nghị của Tuấn A, gồm: Triệu Mùi L, Lê Thị M (sinh ngày 13/01/2006, trú tại xã N, huyện Y), Hoàng Thị Ngọc T (sinh năm 2002, trú tại thôn Bắc Phù, xã Bắc Thủy, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn), Đoàn Thị T2 (sinh ngày 24/12/2004, trú tại xã VX, huyện PT, thành phố Hà Nội), Lê Thúy V (sinh năm 2007, trú tại thôn Thanh S, xã V, huyện S); Tuấn A đã bảo 05 nhân viên này đi lên Phòng hát số 04, tầng hai phục vụ rót bia cho nhóm của Q. Một lúc sau, thì T1 đến và nói với Tuấn A “Em lên tầng một tý”, Tuấn A biết T1 mang ma túy đến nên đi theo sau, lên đến tầng hai T1 đi vào Phòng hát số 03 (không có khách hát) và bảo Tuấn A “Gọi mọi người sang lấy hàng”, khi đó thấy Tú đang đứng ở cửa Phòng hát số 04, Tuấn A đã gọi Tú đến, đến nơi Tú thấy cả Tuấn A và T1 chỉ tay vào trong Phòng hát số 03 nói “Đồ để ở khay đựng đồ trên bàn”, Tú hiểu là ma túy nên đi vào phòng lấy 01 túi nhỏ ma túy bằng nilon màu trắng để ở trong giỏ đựng bim bim, trong túi chứa 04 viên ma túy Kẹo màu xanh và ma túy Ke như đã thống nhất mua trước đó. Tú cầm túi ma túy đi về Phòng hát số 04, còn T1 và Tuấn A đi xuống tầng một; Tú đưa túi ma túy cho Q, nhưng do đang hát nên Q cầm túi ma túy để trên chiếc loa, thấy thế Tú cầm túi ma túy bóc ra lấy 02 viên ma túy Kẹo và sử dụng hết 01 viên bằng cách nuốt vào cơ thể, rồi đưa lại túi ma túy lại cho Q cầm; còn 01 viên ma túy Tú cầm đi ra nhà vệ sinh thì gặp M, Tú đưa luôn cho M sử dụng.

Sau khi hát hết bài, Q lấy 02 viên ma túy Kẹo trong túi nilon ra bẻ thành 04 phần, Q chia cho S, T, Tú và bản thân Q mỗi người sử dụng một phần (T nhận phần ma túy từ Q, nhưng không sử dụng, sau đó đem ra nhà vệ sinh vứt). Cùng lúc này Triệu Mùi L nghe thấy có người trong nhóm nói đi xuống tầng một lấy hộ chiếc đĩa sứ để sử dụng ma túy (không xác định được ai nói), L đã đi xuống tầng một gặp Tuấn A và hỏi “Cho em mượn cái đĩa”, Tuấn A hiểu ý lấy đĩa để dùng sử dụng ma túy Ke, nên bảo L “Cứ lên phòng đi anh khác mang lên cho”, L quay lên phòng; một lúc sau Tuấn A cầm 01 chiếc đĩa sứ màu trắng lên cho mọi người để sử dụng ma túy (cùng lúc này có Trần Văn Hạnh, sinh năm 1990 (trú thôn 16, xã K, thành phố TQ), là bạn của Q, từ Phóng hát số 02 sang giao lưu uống bia với cả nhóm), L thấy có người nói với mình là“Xào hộ anh” (không xác định được ai nói), nhưng L hiểu ý là xào ma túy Ke để sử dụng. L đã dùng chiếc bật lửa để trên bàn hơ nóng chiếc đĩa sứ, sau đó Q đưa túi ma túy Ke cho L và nói đổ ra một nửa sử dụng trước, L đổ một nửa ma túy ra đĩa, phần còn lại đưa cho Q cất giấu vào trong hộc tay nắm chiếc loa thùng (mục đích để sử dụng tiếp); L tiếp tục dùng chiếc thẻ nhựa màu đen để trên bàn nghiền nhỏ số ma túy Ke trong đĩa thành bột mịn, rồi chia ra thành nhiều đường thẳng nhỏ; sau đó Q đưa cho L 01 tờ tiền Polime, mệnh giá 20.000 đồng để cuộn làm ống hút. Khi làm xong, L bê đĩa ma túy đưa cho Q sử dụng trước, Q hít hết 02 đường ma túy và bảo L mời các anh trong phòng, L tiếp tục bê đĩa ma túy mời T, S, M, T, Hạnh sử dụng (T và Hạnh không sử dụng); Q bảo với L “Em chơi tý đi”, L sử dụng hết 01 đường ma túy, sau đó L hỏi Lê Thúy V “Có chơi không”, V nói “Có”, L bê đĩa ma túy đưa cho V sử dụng hết 01 đường, rồi L để đĩa ma túy để trên bàn và ngồi rót bia, nghe hát. Một lúc sau T đi xuống tầng một nằm, rồi về nhà.

Khoảng 22 giờ 10 phút cùng ngày, Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an tỉnh TQ kiểm tra, phát hiện tại Phòng hát số 04, Quán Karaoke HM nhóm T, S, Q, M, Hạnh và 05 nữ nhân viên có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy, Tổ công tác đã thu giữ trong Phòng hát số 04: 01 đĩa sứ (trong đĩa có bám dính chất bột màu trắng); 01 ống tròn cuộn bằng tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng; 01 thẻ nhựa màu đen in chữ “Huy Trung”; 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng trong hộc tay nắm chiếc Loa thùng. Sau đó, Cơ quan điều tra đã tiến hành lập biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với T, S, Q, L, T và Tuấn A theo quy định pháp luật; còn Lâm Thanh T1 chưa xác định được ở đâu.

Ngày 09/4/2022, tiến hành xét nghiệm tìm chất ma túy đối Trần Văn Q, Phương Văn T, Nguyễn Duy S, Ma Văn M, Triệu Mùi L, Lê Thúy V, kết quả (+) dương tính với chất ma túy; Trần Văn Q, Đinh Văn T, Lê Thị M, Đoàn Thị T2, Hoàng Thị Ngọc T, Trần Văn H, kết quả (-) âm tính với chất ma túy. Ngày 18/4/2022, Trưởng Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an tỉnh TQ đã ra các quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T, S, Q, M, L, V về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức Cảnh cáo.

Tại kết luận giám định số 440/KL-GĐKTHS ngày 14/4/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TQ, kết luận: Số chất bột màu trắng thu giữ trên đĩa sứ là chất ma túy, loại Ketamine, khối lượng 0,014 gam; số chất tinh thể màu trắng thu giữ trong hộc chiếc Loa thùng là chất ma túy, loại Ketamine, khối lượng 0,574 gam.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2022/HS-ST ngày 28/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh TQ đã quyết định:

Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ điểm b, điểm c khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Đinh Văn T phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt: Căn cứ: Điểm b, điểm c khoản 2 Điều 255; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 58 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Đinh Văn T 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (10/4/2022).

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với 05 bị cáo khác, quyết định về hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 11/10/2022 bị cáo Đinh Văn T có đơn kháng cáo đề nghị giảm hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Đinh Văn T giữ nguyên kháng cáo. Ban đầu bị cáo không nhận tội. Sau đó thừa nhận hành vi chuyển tiền để mua ma tuý, hành vi của bị cáo bị truy tố xét xử là đúng với các căn cứ pháp luật.

Luật sự bào chữa cho bị cáo trình bày: Bị cáo Q ngay từ đầu khai không có bàn bạc gì, lời khai có mâu thuẫn nhưng không được đối chất. Bị cáo Đinh Văn T không biết rõ nội dung, mục đích chuyển tiền. Lời khai của Sơn là bàn mua ma tuý ở tầng 1, trong khi các bị cáo khác khai là bàn góp tiền mua ma tuý ở tầng 2. Như vậy chưa rõ là các bị cáo bàn bạc mua ma tuý ở đâu. Không có lời khai của người bán ma túy là T1 do bỏ trốn. Do đó, đề nghị, Toà án cấp phúc thẩm trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhận định: Trong quá trình xét xử phúc thẩm, bị cáo có kháng cáo không cung cấp được các tài liệu, chứng cứ mới. Không có các Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới. Bên cạnh đó, mức án 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù mà Toà cấp sơ thẩm tuyên cho bị cáo Đinh Văn T với tội danh “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” là phù hợp, đúng căn cứ pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, bác toàn bộ kháng cáo của bị cáo Đinh Văn T, giữ nguyên bản án sơ thẩm số 35/2022/HS-ST ngày 28/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh TQ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng: Tại phiên toà các bị cáo đều thừa nhận hành vi tố tụng và quyết định của cơ quan tố tụng tại giai đoạn điều tra, truy tố đối với các bị cáo là đúng pháp luật, không bị bức cung, nhục hình, có đủ thành phần tham gia và không khiếu nại. Nên các tài liệu, chứng cứ thu thập được và quyết định tố tụng có trong hồ sơ vụ án có đủ điều kiện khách quan để thẩm định, xem xét trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo.

[2] Về nội dung vụ án:

Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, nhưng tại phiên tòa, Luật sư và bị cáo lại kêu oan, Hội đồng xét xử đánh giá:

[2.1] Căn cứ hồ sơ vụ án; lời khai các bị cáo, người làm chứng và kết quả thẩm định chứng cứ tại phiên toà, đủ căn cứ xác định:

Trong khoảng thời gian từ 21 giờ 30 phút đến 22 giờ ngày 09/4/2022, tại Quán Karaoke HM thuộc thôn C, xã H, huyện Y, tỉnh TQ, các bị cáo Phương Văn T, Trần Văn Q, Nguyễn Duy S, Đinh Văn T có hành vi góp tiền; Trần Văn Qnh là người tích cực góp sức trong việc mua ma tuý về để cùng sử dụng, đồng thời tạo điều kiện về địa điểm để các đối tượng sử dụng ma túy.

Ngoài việc cùng nhau sử dụng ma túy, các bị cáo đã có hành vi tổ chức cho các đối tượng khác sử dụng trái phép chất ma túy, loại MDMA và Ketamine. Những người cùng sử dụng ma túy khác không góp tiền gồm: Ma Văn M (sinh năm 1992, trú tại thôn 22, xã K, thành phố TQ), Triệu Mùi L (sinh ngày 28/6/2004, trú tại thôn Cao S, xã Quảng Nguyên, huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang) và Lê Thúy V (sinh năm 2007, trú tại thôn Thanh S, xã V, huyện S, tỉnh TQ).

Triệu Mùi L đã có hành vi giúp sức chuẩn bị các điều kiện để người khác sử dụng như hơ nóng đĩa ma túy, “xào” ma túy, bê ma túy đi mời; để những người khác sử dụng ma túy.

Bị cáo T lúc đầu phiên tòa không nhận tội, nhưng sau đó thừa nhận có biết và chuyển tiền để mua ma túy.

Hành vi nêu trên của các bị cáo Phương Văn T, Nguyễn Duy S, Trần Văn Q, Đinh Văn T, Trần Văn Q, Triệu Mùi L đã đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TQ truy tố các bị cáo về tội danh “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm b, điểm c, khoản 2, Điều 255 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2.2] Về hành vi, vai trò, tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo Đinh Văn T:

Trong vụ án này, người khởi xướng là Phương Văn T, sau đó Trần Văn Q và Nguyễn Duy S, Đinh Văn T cùng góp tiền nhờ Trần Văn Qnh liên hệ mua ma tuý về cùng nhau sử dụng đã bị cơ quan Công an xử phạt hành chính.

Tuy không sử dụng ma túy nhưng, bị cáo Đinh Văn T cùng với các bị cáo khác cung cấp ma tuý cho người khác sử dụng (gồm Ma Văn M, sinh năm 1992, Triệu Mùi L, sinh ngày 28/6/2004 và Lê Thúy V, sinh năm 2007). Vai trò của bị cáo trong vụ án là giúp sức cho đối tượng khởi xướng tổ chức sử dụng ma túy.

Tại phiên tòa bị cáo không có thêm Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, Toà án cấp sơ thẩm quyết định cho bị cáo Đinh Văn T mức hình phạt 07 (bảy) năm 3 (ba) tháng tù là phù hợp, có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến của Vị đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đinh Văn T, giữ nguyên các quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2022/HS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh TQ.

[3] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Đinh Văn T không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đinh Văn T; giữ nguyên hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2022/HS-ST ngày 28 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh TQ, như sau:

Căn cứ điểm b, điểm c khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự, tuyên bố bị cáo Đinh Văn T phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm b, điểm c khoản 2 Điều 255; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 và Điều 58 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Đinh Văn T 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 10/4/2022.

2. Về án phí: Bị cáo phải chịu số tiền 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

71
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 237/2023/HS-PT

Số hiệu:237/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về