Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý số 73/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 73/2022/HS-PT NGÀY 26/04/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 26 tháng 04 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 31/2022/TLPT-HS ngày 01 tháng 03 năm 2022 đối với bị cáo Lê Thành T, do có kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố TA, tỉnh Long An.

Bị cáo bị kháng nghị: Lê Thành T (Tên gọi khác: Tý Đề), sinh năm 1991 tại Long An. Nơi cư trú: Số 02/25, đường C, PX, thành phố TA, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Q tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Đ (Đã chết) và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1954; Vợ Thị N, sinh năm 1992, có 01 người con sinh năm 2016; tiền sự: Không;

Tiền án:

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 106/2013/HS-ST ngày 25-9-2013 của Tòa án nhân dân thành phố TA đã xử phạt bị cáo 01 năm 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 101/2016/HS-ST ngày 13-4-2016 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh đã xử phạt bị cáo 03 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 20/2019/HS-ST ngày 27-3-2019 của Tòa án nhân dân thành phố TA đã xử phạt bị cáo 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Nhân thân:

- Ngày 01-8-2005 bị UBND thị xã TA Quyết định về việc đưa đối tượng vi phạm vào trường giáo dưỡng số 2330/QĐ-UBND về hành vi “Trộm cắp tài sản”, thời hạn 24 tháng;

- Ngày 22-01-2009 bị UBND thị xã TA Quyết định về việc đưa đối tượng vi phạm vào trường giáo dưỡng số 317/QĐ-UBND về hành vi “Trộm cắp tài sản”, thời hạn 24 tháng.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 24-6-2021 đến ngày 02-7-2021 chuyển tạm giam cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Những người tham gia tố tụng khác không có kháng cáo hoặc liên quan đến kháng cáo, kháng nghị, không triệu tập:

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Ngô Văn Ph, sinh năm 1987. Địa chỉ: Ấp PB, xã PA, huyện PT, tỉnh An Giang.

2. Anh Trần Minh Q, sinh năm 1996. Địa chỉ: Số 8y/1xB, đường NTB, phường X, thành phố TA, tỉnh Long An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 23-6-2021, bị cáo Lê Thành T điều khiển xe môtô biển số 63B3-914.69 đi đến Thành phố Hồ Chí Minh mua 10 gói ma túy của một người không rõ nhân thân, với số tiền 4.000.000 đồng và mang về nhà cất giấu. Đến khoảng 10 giờ ngày 24-6-2021, T điều khiển xe mô tô nêu trên và mang theo 10 gói ma túy đến phòng trọ số 10, nhà trọ số 67/4, đường N, phường 4, thành phố TA để tìm Ngô Văn Ph. Khi đến phòng trọ, T lấy 01 gói ma túy ra và đổ một phần vào cái nỏ để sử dụng cùng với Ph tại phòng trọ. Tất cả số ma túy còn lại, T bỏ vào cái hộp màu hồng sọc trắng cất vào lưng quần đang mặc và chạy xe môtô lên phường X, thành phố TA để gặp Trần Minh Q và chở Q xuống phòng trọ của Ph chơi. Tại đây, T cùng Q và Ph tiếp tục sử dụng ma túy còn lại trong cái nỏ. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, lực lượng Công an tiến hành kiểm tra hành chính tại phòng trọ số 10 nêu trên phát hiện T, Ph và Q đang có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Tiến hành kiểm tra trên người của T phát hiện phía sau lưng quần bên phải có 01 hộp giấy màu hồng sọc trắng bên trong có 10 gói nylon chứa ma túy đá.

Tại Bản kết luận giám định số 605/2021/KLGĐ ngày 29-6-2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Long An xác định: Tinh thể màu trắng đựng trong 10 (mười) gói ny lon màu trắng được niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng: 7,6955 gam, loại: Methamphetamine.

Vật chứng thu giữ trong vụ án gồm: 10 gói nylon màu trắng, bên trong chứa tinh thể màu trắng, đã được niêm phong có chữ ký của Lê Thành T, Trần Minh Q, Nguyễn Minh Nh; 01 xe mô tô mang biển số 63B3-914.69; 01 điện thoại di động Samsung màu xanh A21S; 01 hộp thuốc lá hiệu Hero; 01 hộp giấy màu hồng, sọc trắng nên ngoài có chữ Holdlive; 01 cân điện tử màu xám; 01 bộ dụng cụ sử dụng trái phép chất ma túy gồm: 01 chai nhựa có nắp, 01 nỏ thủy tinh, 01 đoạn ống hút màu trắng; 01 bóp da màu nâu; Tiền Việt Nam: 650.000 đồng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2022/HS-ST ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố TA, tỉnh Long An đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Lê Thành T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Các điểm g, o khoản 2 Điều 249; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Lê Thành T 07 (Bảy) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 24-6-2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo đối với những người tham gia tố tụng.

Ngày 15 tháng 02 năm 2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 22/QĐ-VKSLA, kháng nghị toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2022/HS-ST ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố TA, tỉnh Long An theo hướng hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra lại theo thủ tục chung. Bị cáo T ngoài hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như án sơ thẩm đã xét xử, bị cáo còn có dấu hiệu phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự, nhưng cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ để truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng một vụ án.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa vẫn giữ nguyên kháng nghị.

- Bị cáo Lê Thành T khai nhận: Khi lực lượng Công an tiến hành kiểm tra hành chính tại phòng trọ của Ph thuê để ở thì phát hiện bị cáo cùng Ph và Q đang có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Tiến hành kiểm tra trên người của bị cáo phát hiện bị cáo đang cất giấu 10 gói ma túy như án Cáo trạng và án sơ thẩm đã nêu là đúng. Do đó, bị cáo bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là đúng tội, đúng pháp luật, không oan cho bị cáo, nên bị cáo không có kháng cáo.

Ngoài ra, lượng ma túy có trong nỏ để bị cáo cùng Ph và Q sử dụng trái phép là do bị cáo cung cấp, phần còn lại bị cáo cất giấu thì bị phát hiện. Cụ thể: Bị cáo T biết rõ Ph và Q là người nghiện ma túy. Khi đến phòng trọ gặp Ph, bị cáo nói Ph đưa dụng cụ sử dụng ma túy để bị cáo bỏ ma túy vào cho. Sau khi bị cáo và Ph sử dụng ma túy được khoảng 05 phút thì bị cáo điều khiển xe đi tìm Q. Sau khi gặp Q và chở Q đến phòng trọ của Ph, bị cáo T trực tiếp đưa nỏ có ma túy còn lại cho Q sử dụng, rồi đến bị cáo T và Ph tiếp tục sử dụng cho đến khi bị lực lượng Công an vào kiểm tra. Bị cáo T xác định, lượng ma túy có trong nỏ để bị cáo cùng với Q và Ph sử dụng trái phép ngày 24-6-2021 là của bị cáo cung cấp. Đối với 01 cân điện tử bị Công an thu giữ tại phòng trọ của Ph bị cáo T không biết là của ai và để sử dụng vào mục đích gì. Đối với kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An bị cáo không có ý kiến.

Đại diện Viện kiển sát nhân dân tỉnh Long An tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm về giải quyết vụ án:

Về thủ tục tố tụng: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An thực hiện kháng nghị đúng quy định của pháp luật, nên được Tòa án chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

Về nội dung vụ việc và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đối với bản án sơ thẩm: Lời khai nhận của bị cáo T tại phiên tòa phúc thẩm, phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm và những chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lê Thành T đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tòa án cấp sơ thẩm đã căn cứ vào các điểm g, o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xét xử bị cáo với mức hình phạt 07 năm 06 tháng tù là có căn cứ.

Tuy nhiên, ngoài hành vi phạm tội như trên, bị cáo T còn có hành vi cung cấp chất ma túy cho Ngô Văn Ph và Trần Minh Q sử dụng trái phép. Hành vi này của bị cáo T có dấu hiệu phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự nhưng cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ để truy cứu trách nhiệm hình sự cùng với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, nên cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 355 và điểm a khoản 1 Điều 358 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuyên hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số: 06/2022/HS-ST ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố TA, tỉnh Long An để giao về cấp sơ thẩm điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung.

Phần tranh luận: Bị cáo không tranh luận.

Lời nói sau cùng: Bị cáo T xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An kháng nghị trong thời hạn được pháp luật quy định tại Điều 337 Bộ luật Tố tụng Hình sự, nên Tòa án nhân tỉnh Long An thụ lý xét xử theo thủ tục phúc thẩm là có căn cứ.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo và kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An đối với bản án sơ thẩm:

[2.1] Xét, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm thống nhất với lời khai tại phiên tòa sơ thẩm. Lời khai này, còn phù hợp với lời khai của những người có nghĩa vụ liên quan và cùng các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận rằng: Bị cáo Lê Thành T là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và là người đang nghiện chất ma túy. Khoảng 14 giờ ngày 24-6-2021 tại phòng trọ số 10, địa chỉ: Số 67/4, đường Nguyễn Văn Tạo, phường 4, thành phố TA, tỉnh Long An, lực lượng Công an tiến hành kiểm tra hành chính nhà trọ phát hiện bị cáo Lê Thành T cùng Ngô Văn Ph và Trần Minh Q đang có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Quá trình kiểm tra trên người bị cáo T cất giấu 10 gói ma túy có tổng khối lượng 7,6955 gam, loại Methamphetamine. Do đó, hành vi của bị cáo T đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm g và o khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội danh và điều luật như trên là đúng pháp luật, không oan cho bị cáo.

[2.2] Tuy nhiên, ngoài hành vi phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” bị lực lượng Công an bắt quả tang ngày 24-6-2021, bị cáo T còn khai nhận: Trước đó, bị cáo là người cung cấp ma túy để bị cáo cùng với Ngô Văn Ph và Trần Minh Q sử dụng trái phép và bị lực lượng Công an phát hiện. Lời khai này của bị cáo T cũng phù hợp với lời khai của người liên quan Ph và Q. Do đó, căn cứ vào hướng dẫn tại mục 1 Phần 7 Công văn số 02/TANDTC-PC ngày 02-8-2021 của Tòa án nhân dân tối cao, thì hành vi cung cấp ma túy như trên của bị cáo T là một trong các hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Vì vậy, hành vi của bị cáo T có dấu hiệu phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự, nhưng chưa được các cơ quan tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm điều tra, truy tố và xét xử trong cùng một vụ án với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm.

Với những thiếu xót trên của cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm không thể khắc phục được. Do đó, chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355 và điểm a khoản 1 Điều 358 Bộ luật Tố tụng hình sự, hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2022/HS- ST ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố TA, tỉnh Long An, giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố TA điều tra lại theo thủ tục chung.

[3] Ngoài ra, khi điều tra lại vụ án cũng cần làm rõ: 01 cân điện tử, màu xám thu giữ cùng lúc phát hiện vụ án tại phòng trọ của Ph là của ai và sử dụng vào mục đích gì. Cũng như xác minh làm rõ về nhân thân của bị cáo T về phần tên tuổi vợ của bị cáo.

[4] Về án phí: Bị cáo Lê Thành T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 355 và điểm a khoản 1 Điều 358 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Long An theo Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 22/QĐ-VKSLA ngày 15 tháng 02 năm 2022.

Hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 06/2022/HS-ST ngày 18 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố TA, tỉnh Long An.

Giao hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân thành phố TA, tỉnh Long An để điều tra, truy tố và xét xử lại vụ án theo đúng quy định của pháp luật.

Căn cứ vào khoản 5 Điều 358 Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo Lê Thành T cho đến khi Viện kiểm sát cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án.

2. Về án phí: Bị cáo Lê Thành T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

941
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý số 73/2022/HS-PT

Số hiệu:73/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về