TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 219/2023/HS-ST NGÀY 11/08/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 11 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh D, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 232/2023/HSST-HS ngày 28 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 219/2023/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:
Trần Văn H, sinh năm 1998 tại tỉnh G; nơi thường trú: Khóm L, thị trấn V, huyện C, tỉnh G; chỗ ở: Khu phố Q, phường I, thành phố A, tỉnh D; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Y, sinh năm 1979 và bà Trần Thị O, sinh năm 1977; bị cáo có vợ tên Nguyễn Thị Ơ và 02 người con, sinh năm 2015 và 2018; tiền sự: Không; tiền án: Không.
Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/3/2023 cho đến nay.
Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn T, sinh năm 1964;
trú tại: Xóm 5, xã D, huyện Đ, tỉnh N. Vắng mặt
Người làm chứng: Ông Trương Văn C; ông Nguyễn Chí K; ông Nguyễn Thanh E. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Minh S và Trần Văn H là người nghiện chất ma túy, S và H cùng thuê và sinh sống tại phòng trọ số 9 của cơ sở trọ số: D18/12 khu phố Bình Th 2, phường Th Giao, thành phố T, tỉnh D.
Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 03/01/2022, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên Nguyễn Minh S điều khiển xe môtô biển số 37K5 – xxxxx đến khu vực đường Mỹ Phước Tân Vạn thuộc phường An Phú, thành phố T, tỉnh D gặp người thanh niên (khoảng 21 tuổi, cao khoảng 1,7m dáng người ốm, nói giọng miền Nam) mua 01 bịch nylon màu đen bên trong có tờ khăn giấy màu trắng được quấn băng keo đen đựng 01 túi nylon miệng kéo dính viền đỏ chứa ma túy đá với giá là 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng). S đem số ma túy này về cất giấu trong túi quần của S treo lên cửa sổ phòng trọ số 9 để sử dụng. Đến khoảng 19 giờ 30 phút cùng ngày, S rủ bạn là Trương Văn C, Nguyễn Thanh E và Nguyễn Chí K đến phòng trọ số 9 để ăn uống. Khi C đến, S rủ H và C sử dụng ma túy thì H và C đồng ý nên S lấy 01 túi nylon miệng kéo dính chứa ma túy đá của S cất giấu trong túi quần treo trong nhà vệ sinh ra đổ vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy do H tự chế để sẵn trong phòng rồi S, H và C cùng sử dụng. Đến khoảng 18 giờ 30 phút cùng ngày, S điều khiển xe môtô biển số 37K5 – xxxxx chở C đi ăn hủ tiếu. Khoảng 20 giờ 00 phút cùng ngày 03/01/2022, T đi đến phòng trọ số 9 theo lời S rủ trước đó, T thấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy của H để trên nền phòng trọ bên trong có sẵn ma túy nên T lấy và sử dụng. Đến khoảng 21 giờ 30 phút cùng ngày, S, C và K đi về phòng trọ số 9 thì Công an phường Th Giao, thành phố T đến kiểm tra hành chính phát hiện, bắt giữ S, H, C, T và K cùng tang vật.
Qua điều tra, Nguyễn Minh S khai nhận hành vi phạm tội như nêu trên. Ngoài ra, S còn khai vào lúc 06 giờ 00 phút ngày 03/01/2022 cũng tại phòng số 9 S đổ ma túy vào bộ dụng cụ tự chế của H rồi cho Nguyễn Chí K sử dụng. Về nguồn gốc số ma túy S cho H, C, T và K sử dụng là do S được người bạn tên Th (Chưa xác minh được nhân thân, địa chỉ) cho vào ngày 02/01/2022, S bỏ vào túi quần treo trong nhà vệ sinh phòng số 9 để sử dụng. Việc S cất giấu ma túy thì C, T và K không biết và S cũng không thu tiền khi cho H, C, T và K sử dụng chất ma túy.
Vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) bộ dụng cụ sử dụng ma túy; 01 (một) bịch nylon màu đen bên trong có tờ khăn giấy màu trắng được quấn băng keo đen đựng 01 túi nylon miệng kéo dính viền đỏ chứa tinh thể màu trắng (nghi là ma túy tổng hợp) và 01 (một) xe mô tô Dream màu nâu biển số 37K5 – xxxxx, số khung: 086830, số máy:
086830.
Tại Phiếu trả lời kết quả ngày 04/01/2022 của Trung tâm y tế thành phố T xác định: Nguyễn Minh S, Trần Văn H, Trương Văn C, Nguyễn Thanh E và Nguyễn Chí K dương tính với ma túy loại Methamphetamine.
Tại Bản kết luận giám định số 51/MT-PC09 ngày 10/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh D kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng (gồm 01 (một) túi nylon màu đen cột miệng đựng 01 (một) túi nylon miệng kéo dính chứa tinh thể màu trắng được quấn xung quanh bằng giấy trắng và băng keo đen), gửi giám định là ma túy, có khối lượng 24,8185 gam, loại Methamphetamine.
Ngày 09/01/2022, Công an phường Th Giao, thành phố T, tỉnh D đã ra Quyết định xử phạt vi phạm trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội với số tiền là 1.500.000 đồng (Một triệu năm trăm nghìn đồng) đối với Trương Văn C, Nguyễn Thanh E và phạt 750.000 đồng (Bảy trăm năm mươi nghìn đồng) đối với Nguyễn Chí K về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Ngày 14/9/2022 Toà án nhân dân thành phố T, D đã xử phạt Nguyễn Minh S 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 09 (chín) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt 01 (một) năm tù tại Bản án số 66/2021/HS-ST ngày 12/05/2021 của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh D. Buộc bị cáo Nguyễn Minh S phải chấp hành hình phạt chung là 16 (mười sáu) năm 06 (sáu) tháng tù theo Bản án số 260/2022/HS- ST.
Ngày 17/3/2023 Trần Văn H bị bắt theo Quyết định truy nã số 28/QĐTN- CSĐT(KT&MT) ngày 30/7/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố T, tỉnh D.
Tại Cáo trạng số 239/CT-VKS -TA ngày 27/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh D đã truy tố bị cáo Trần Văn H về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điểm a, b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà trình bày lời luận tội trong đó có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định Cáo trạng đã truy tố, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo gây ra và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm Hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) tuyên phạt bị cáo Trần Văn H từ 08 (tám) năm đến 09 (chín) năm tù về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.
Về xử lý vật chứng: Vật chứng trong vụ án đã được xử lý tại Bản án 260/2022/HS-ST ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh D.
Đối với người thanh niên tên “Th” đã cho Nguyễn Minh S ma túy vào ngày 02/01/2023 và đối tượng bán ma túy cho Nguyễn Minh S vào ngày 03/01/2023 tại khu vực đường Mỹ Phước Tân Vạn thuộc phường An Phú, thành phố T, tỉnh D. Cơ quan C sát điều tra Công an thành phố T đã tiến hành xác minh nhưng không có thông tin đầy đủ nên không xác định được nhân thân, địa chỉ. Cơ quan C sát điều tra Công an thành phố T tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.
Bị cáo Trần Văn H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng theo nội dung Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo đã ăn năn hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của những người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh D truy tố bị cáo trước Tòa. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận:
Khoảng 06 giờ 00 phút ngày 03/01/2022, tại phòng trọ số 9 của cơ sở trọ số D18/12 khu phố Bình Th 2, phường Th Giao, thành phố T, tỉnh D, Trần Văn H và Nguyễn Minh S có hành vi cung cấp ma túy, địa điểm, công cụ cho Nguyễn Chí K sử dụng trái phép chất ma túy. Đến 21 giờ 30 phút cùng ngày 03/01/2022, cũng tại phòng trọ số 9 Nguyễn Minh S và Trần Văn H tiếp tục có hành vi cung cấp ma túy, địa điểm, công cụ cho Trần Văn H, Trương Văn C và Nguyễn Thanh E sử dụng trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo Trần Văn H và Nguyễn Minh S đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điểm a, b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo là có căn cứ và đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo nhận thức được hành vi cung cấp chất ma túy, công cụ, địa điểm và tổ chức cho người khác sử dụng trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì mục đích vụ lợi và để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội, trực tiếp xâm phạm đến chế độ độc quyền về quản lý chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Vì vậy phải xét xử mức án tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng cho bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
[4] Vụ án có tính chất đồng phạm, trong đó bị cáo Trần Văn H có hành vi cung cấp bộ dụng cụ tự chế cho S, C, T và K sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo Nguyễn Minh S là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Ngày 14/9/2022 Toà án nhân dân thành phố T, D đã xử phạt bị cáo Nguyễn Minh S 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 09 (chín) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Trần Văn H không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, tuy nhiên sau khi phạm tội bị cáo có hành vi bỏ trốn gây khó khăn cho quá trình điểu tra nên cần xem xét khi lượng hình đối với bị cáo H.
[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[7] Lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, đúng pháp luật nên chấp nhận.
[8] Về xử lý vật chứng: Vật chứng thu giữ trong vụ án đã được xử lý tại Bản án 260/2022/HS-ST ngày 14/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh D nên không đề cập.
[9] Đối với người thanh niên tên “Th” đã cho Nguyễn Minh S ma túy vào ngày 02/01/2022 và đối tượng bán ma túy cho Nguyễn Minh S vào ngày 03/01/2022 tại khu vực đường Mỹ Phước Tân Vạn thuộc phường An Phú, thành phố T, tỉnh D. Cơ quan C sát điều tra Công an thành phố T đã tiến hành xác minh nhưng không có thông tin đầy đủ nên không xác định được nhân thân, địa chỉ. Cơ quan C sát điều tra Công an thành phố T tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.
[10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên, Căn cứ vào:
QUYẾT ĐỊNH
- Điểm a, b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
- Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;
1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Trần Văn H phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Xử phạt: Bị cáo Trần Văn H 09 (chín) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính tính ngày 17/3/2023.
2. Về án phí:
Bị cáo Trần Văn H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 219/2023/HS-ST
Số hiệu: | 219/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/08/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về