Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 161/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYN NHƠN TRẠCH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 161/2023/HS-ST NGÀY 27/01/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 157/2023/TLST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 167/2023/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

1. Nguyễn Văn K, sinh năm 1988 tại tỉnh K; Nơi cư trú: Ấp C, xã L, huyện N, tỉnh Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 12/12; Nghề nghiệp: Công nhân; Con ông Nguyễn Văn K1, sinh năm 1947 (đã chết) và bà Đặng Thị T, sinh năm 1957 (còn sống); Gia đình bị cáo có 4 anh, chị, em, bị cáo là con thứ 04 trong gia đình; Bị cáo có vợ là Danh Thị C (sinh năm 1991) và 02 con (lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2018); Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/02/2023 (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

2. Dương Minh T1, sinh năm 2000 tại tỉnh Đ; Nơi cư trú: Ấp C, xã L, huyện N, tỉnh Đ; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Không; Con ông Dương Hồ T2, Sinh năm 1968 (còn sống) và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1972 (còn sống); Gia đình bị cáo có 2 chị em, bị cáo là con thứ 2 trong gia đình; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/02/2023 (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

Người làm chứng:

- Bà Nguyễn Thị Trúc L, sinh năm 1992 Địa chỉ: Ấp C, xã L, huyện N, tỉnh Đ - Bà Đinh Thị Hương T3, sinh năm 1998 Địa chỉ: Ấp C, xã L, huyện N, tỉnh Đ

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Văn K và Dương Minh T1 là các đối tượng nghiện ma túy. Vào khoảng 00 giờ 40 phút ngày 16/02/2023, K rủ T1 mỗi người góp 1.400.000 đồng để mua ma túy về sử dụng, T1 đồng ý. K sử dụng điện thoại liên lạc mua của một người đàn bà tên M (chưa rõ lai lịch) mua 01 gói ma túy với giá 2.800.000 đồng mang về phòng trọ của K thuộc ấp C, xã L, huyện N. Tại đây, K rủ thêm Nguyễn Thị Trúc L (sinh năm 1992, ngụ tại ấp H, xã H, huyện Đ, tỉnh Long An), Đinh Thị Hương T3 (sinh năm 1998, ngụ tại thôn A, xã I, huyện E, tỉnh Đắk Lắk) cùng K và T1 sử dụng ma túy. Đến 05 giờ 30 phút cùng ngày, khi K, T1, L, T3 vừa sử dụng ma túy xong thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng, tài sản thu giữ gồm: 01 gói nylon bên trong chứa chất bột màu trắng kích thước 3 x 4cm; 01 cái đĩa sứ hình vuông màu trắng; 01 thẻ ATM; 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng; 01 đèn laser; 02 loa nghe nhạc màu nâu và 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh rêu của Nguyễn Văn K dùng vào việc phạm tội.

Tại bản kết luận giám định ma túy số 329/KL-KTHS ngày 23/02/2023 của phòng K2 Công an tỉnh Đ kết luận:

- Mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu M) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,0500 gam (không phẩy không năm trăm không không gam), loại: Ketamine.

- Mẫu chất bột màu trắng (ký hiệu Ml) bám dính trên 01 (một) đĩa sứ hình vuông màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, loại: Ketamine. Mầu dạng vết không xác định được khối lượng.

Kết quả xét nghiệm K, T1, L, T3 đều dương tính với chất ma túy loại Ketamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều không có ý kiến hay khiếu nại gì về kết luận giám định nêu trên.

Đối với người đàn bà tên M đã bán ma túy cho K, do chưa xác định được lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với Nguyễn Thị Trúc L và Đinh Thị Hương T3 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Công an huyện N đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

Tại bản Cáo trạng số: 153/CT-VKS - NT ngày 18/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh Đ truy tố Nguyễn Văn K và Dương Minh T1 về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện N trong phần tranh luận giừ nguyên quyết định truy tố Nguyễn Văn K và Dương Minh T1 về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và đề nghị:

Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; Điều 38; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58;

- Xử phạt Nguyễn Văn K từ 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng đến 08 (tám) năm tù.

- Xử phạt Dương Minh T1 từ 07 (bảy) năm đến 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Toà tuyên:

+ Tịch thu tiêu hủy: Toàn bộ số ma túy còn lại sau giám định (được niêm phong số 392/KL-KTHS có chữ ký ghi họ tên Phan Thị Hoàng M1, Phạm Văn N và dấu tròn màu đỏ Phòng K2 Công an tỉnh Đ) và 1 thẻ ATM của Nguyễn Văn K.

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng; 01 đèn laser; 02 loa nghe nhạc màu nâu và 01 điện thoại di động hiệu màu xanh rêu của Nguyễn Văn K.

Các bị cáo Nguyễn Văn K và Dương Minh T1 không có ý kiến gì đối với quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện N và không tranh luận gì tại phiên tòa.

Lời nói sau cùng của các bị cáo Nguyễn Văn K và Dương Minh T1 tại phiên tòa: Bị cáo kính mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Trước cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo các bị cáo Nguyễn Văn K và Dương Minh T1 đã khai nhận hành vi phạm tội của các bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang, lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác thu thập được có tại hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở xác định:

Vào lúc 00 giờ 40 phút ngày 16/02/2023, Nguyễn Văn K và Dương Văn T4 đã cung cấp ma túy, chuẩn bị dụng cụ, tổ chức cho Nguyên Thị Trúc L và Đinh Thị Hương T3 sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng trọ của K ở ấp C, xã L, huyện N thì bị bắt quả tang.

Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn K và Dương Minh T1 đã phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2, Điều 255 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện N đã truy tố là đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

[3] Về nhân thân, tính chất mức độ của hành vi phạm tội và vai trò của các bị cáo:

[3.1] Về nhân thân: Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

[3.2] Về tính chất mức độ của hành vi phạm tội và vai trò của các bị cáo: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy và làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và tự nhận thức được việc tổ chức sử dụng ma túy bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì vẫn cố ý thực hiện việc phạm tội, cho thấy bị cáo không có ý thức chấp hành pháp luật. Hiện nay tệ nạn ma túy diễn ra hết sức phức tạp, lôi kéo nhiều người vào con đường nghiện ngập là nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác.

Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, trong đó: Nguyễn Văn K thực hiện hành vi phạm tội với vai trò là người cung cấp ma túy và địa điểm để tổ chức sử dụng ma túy; Dương Minh T1 là người thực hiện hành vi phạm tội với vai trò là người cung cấp ma túy.

Do đó, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm tương xứng với vai trò của từng bị cáo, cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại phiên Tòa, bị cáo tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Các bị cáo có nhân thân tốt; Gia đình bị cáo T1 có công với Cách M2 (bà nội của bị cáo T1 là Mẹ Việt Nam anh hùng). Do đó các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[6] Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong sau giám định số 392/KLKTHS ngày 23/02/2023 của Phòng ký thuật hình sự Công an tỉnh Đ và 1 thẻ ATM của Nguyễn Văn K.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng; 01 đèn laser; 02 loa nghe nhạc màu nâu và 01 điện thoại di động hiệu màu xanh rêu của Nguyễn Văn K.

[7] Đối với người đàn bà tên M đã bán ma túy cho K, do chưa xác định được lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.

Đối với Nguyễn Thị Trúc L và Đinh Thị Hương T3 có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Công an huyện N đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính.

[8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát về tội danh, mức hình phạt và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ đối với bị cáo là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 136, 260, 293, 298, 299, 326, 327, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;

Áp dụng điểm b, khoản 2, khoản 2 Điều 255; Điều 38; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017);

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn K và Dương Minh T1 phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù từ tính từ ngày 16/02/2023;

2.2 Xử phạt bị cáo Dương Minh T1 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù từ tính từ ngày 16/02/2023;

3. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng các Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 gói niêm phong sau giám định số 392/KLKTHS ngày 23/02/2023 của Phòng ký thuật hình sự Công an tỉnh Đ (ma túy còn lại sau giám định) và 1 thẻ ATM của Nguyễn Văn K.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng; 01 đèn laser; 02 loa nghe nhạc màu nâu và 01 điện thoại di động hiệu màu xanh rêu của Nguyễn Văn K.

(Vật chứng nêu trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện N đang tạm giữ theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 24/7/2023 và Biên lai thu tiền số 0002394 ngày 24/7/2023).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Nguyễn Văn K và Dương Minh T1 mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 161/2023/HS-ST

Số hiệu:161/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhơn Trạch - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về