TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 130/2022/HS-PT NGÀY 06/04/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 06/4/2022, tại Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 03/2022/TLPT-HS, ngày 04/01/2022 đối với các bị cáo Nguyễn Thanh T và đồng phạm do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Quận A và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 119/2021/HS-ST, ngày 24/11/2021 của Tòa án nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh.
Các bị cáo bị kháng nghị:
1. Nguyễn Thanh T, sinh năm 1991 tại Bà Rịa - Vũng Tàu; Thường trú: ấp XB, xã XB, huyện CĐ, Bà Rịa - Vũng Tàu; nghề nghiệp: Nhân viên văn phòng; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn H1 và bà Nguyễn Thị L; hoàn cảnh gia đình: có vợ là Nguyễn Thị Trúc P và 01 con sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt giam từ ngày 04/10/2019 (Có mặt).
2. Lê Nguyễn Hoài N, sinh năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú: đường ST, K1, B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Nhân viên văn phòng; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Văn H2 và bà Nguyễn Thị T3; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt giam từ ngày 04/10/2019 (Có mặt).
3. Ngô Lý D, sinh năm 1996 tại Cà Mau; Thường trú: ấp LĐ, xã VK, huyện P1, Cà Mau; Tạm trú: không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Làm nghề tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ngô Việt T4 và bà Đinh Thị N1; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt giam từ ngày 04/10/2019 (Có mặt).
4. Võ Thanh K, sinh năm 1998 tại Bến Tre; Thường trú: Đường VH, V, C, Bến Tre; Tạm trú: không nơi cư trú nhất định; nghề nghiệp: Phục vụ; trình độ học vấn:
12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Thanh T5 và bà Nguyễn Thị Thùy T6; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt giam từ ngày 04/10/2019 (Có mặt).
5. Nguyễn Thiết T1, sinh năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh; Thường trú:
đường B1, phường BH, quận A1, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Nhân viên văn phòng; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Tấn T7 và bà Hồ Thị L1; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt giam từ ngày 04/10/2019 (Có mặt).
6. Lê Chí H, sinh năm 1994 tại Đồng Nai; Thường trú: đường ĐT, Phường X, quận B2, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Nhân viên văn phòng; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Minh N2 và bà Võ Ngọc P1; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt giam từ ngày 04/10/2019 (Có mặt).
Người bào chữa:
1. Bà Nguyễn Thị Hà T2, luật sư của Công ty luật M thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bến Tre bào chữa cho bị cáo Võ Thanh K (Có mặt).
2. Ông Từ Ngọc Trấn Đ, luật sư của Văn phòng luật sư MT thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh T (Có mặt).
3. Ông Đặng Hoài V, luật sư của Văn phòng luật sư HV thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Lê Nguyễn Hoài N (Vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 07 giờ ngày 04/10/2019, Công an Phường C1, Quận A2, Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành kiểm tra hành chính căn hộ G2 chung cư G, đường K2, Phường C2, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại thời điểm kiểm tra, bên trong căn hộ G2 có 09 đối tượng có biểu hiện nghi vấn sử dụng trái phép ma túy gồm: Nguyễn Thanh T, Lê Nguyễn Hoài N, Ngô Lý D, Võ Thanh K, Nguyễn Thiết T1, Lê Chí H, Lý Thị Bảo T8, Lý Thị Cẩm T9, Thạch Thị Mỹ N3.
Qua kiểm tra, Công an Phường C2, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện trong phòng ngủ căn hộ G2, trên đầu giường ngủ có 01 gói nylon chứa 03 viên nén màu xanh và 01 gói nylon chứa chất bột màu trắng nghi vấn là ma túy cùng một số vật dụng phục vụ cho việc sử dụng trái phép chất ma túy nên đã tiến hành thu giữ toàn bộ vật chứng, đưa tất cả về trụ sở làm rõ, lập Biên bản bắt người phạm tội quả tang. Qua xét nghiệm nhanh: T, N, D, K, T1, H, T8, T9, N3 đều dương tính với ma túy tổng hợp. Tại Kết luận giám định số 1875/KLGĐ – H ngày 11 tháng 10 năm 2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP. Hồ Chí Minh kết luận: Gói 1: Bột màu trắng trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký ghi tên Nguyễn Thanh T và hình dấu Công an Phường C2, Quận A, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,6420g gam, loại Ketamine; Gói 2: 03 viên nén màu xanh trong 01 gói nylon được niêm phong, bên ngoài có chữ ký ghi tên Võ Thanh K và hình dấu Công an Phường C2, Quận A, là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 1,1373g, loại MDMA.
Quá trình điều tra, Nguyễn Thanh T, Lê Nguyễn Hoài N, Ngô Lý D, Võ Thanh K, Nguyễn Thiết T1, Lê Chí H, Lý Thị Bảo T8, Lý Thị Cẩm T9, Thạch Thị Mỹ N3 khai nhận: Khoảng 22 giờ ngày 03/10/2019, T , N, D, K và T1 cùng đi nhậu tại quán đường MĐ, Quận A2, Thành phố Hồ Chí Minh. Khi nhậu gần xong thì T, N, D, K, T1 bàn bạc thống nhất thuê căn hộ để cùng sử dụng ma túy. N nói cho nhóm biết có người cho thuê căn hộ tại chung cư G, Quận A với giá 3.000.000 đồng/đêm, tất cả đồng ý. N gọi điện thoại đến số 0933333492 và nhắn tin qua mạng xã hội Zalo tên “Max H3" cho người đàn ông (chưa rõ lai lịch) thỏa thuận thuê căn hộ G2 chung cư G đường K2, Phường C2, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 3.000.000 đồng, sau đó nói cho T, D, K, T1 biết đã thuê được căn hộ. K lấy điện thoại của T nhắn tin qua mạng xã hội Zalo tên “H Le” cho bạn là Lê Chí H nhờ mua giùm 10 viên thuốc lắc đem đến giao tại chung cư G, Quận A. H dùng điện thoại gọi đến số 0899995768 cho đối tượng bán ma túy quen biết qua mạng xã hội tên Vũ A3 (chưa rõ lai lịch) nói có người hỏi mua 10 viên ma túy thuốc lắc, giao tại chung cư G, Quận A. Vũ A3 đồng ý bán, H liền cho Vũ A3 số điện thoại của K 0936228151 để liên lạc rồi gọi lại nói cho K biết. H biết được K mua ma túy để sử dụng nên xin K cho đến chơi. K hỏi T, N, D, T1 thì tất cả đồng ý cho H đến sử dụng ma túy và thống nhất chia đều ra, H phải trả tiền mà nhóm đã thuê căn hộ và mua ma túy. Ngô Lý D trước đó có đi hát Karaoke tại quán Karaoke B1, quận A1 nên quen biết với Lý Thị Bảo T8 (17 tuổi 10 tháng) làm tiếp viên tại đây. Do biết T8 làm quán Karaoke, nghĩ T8 có sử dụng ma túy thuốc lắc nên D nảy sinh ý định rủ T8 và bạn T8 đến chung cư G, Quận A sử dụng ma túy (bay lắc) chung với T, N, D, K, T1 cho vui. Để thực hiện, D hỏi N căn hộ vừa thuê chứa tối đa bao nhiêu người, N trả lời được 10 người. D liền lấy điện thoại nhắn tin số 0817232697 cho T8 rủ đến căn hộ G, Quận A cùng sử dụng ma túy D cho T8 biết rủ thêm bạn được tất cả 04 người. Sau đó, D đổi ý nhắn tin T8 không rủ bạn tên L2 (chưa rõ lai lịch), 03 người cũng được. T8 lúc này đang làm tại quán Karaoke B1, quận A1 nhận được tin nhắn của D rủ cùng sử dụng ma túy liền đồng ý. T8 rủ thêm em ruột là Lý Thị Cẩm T9 (14 tuổi 11 tháng) và bạn là Thạch Thị Mỹ N3 đang làm chung tại quán Karaoke B1, quận A1 cùng đi sử dụng ma túy chung với D. T9 và N3 đồng ý đi chung nên T8 đặt xe taxi Grab chở T8, T9, N3 từ quận A1 đến chung cư G, Quận A. D dặn T8 khi nào đến chung cư gọi cho D xuống đón. Xong D nói cho T, N, K, T1 biết có rủ thêm 03 bạn nữ đến cùng sử dụng ma túy thì tất cả đồng ý. T, N, D, K, T1 thống nhất là không thu tiền của 03 người này vì là nữ đến sử dụng ma túy chung cho vui.
Gần 23 giờ cùng ngày, T1 lấy xe chạy đi lấy máy laptop để đánh nhạc cho cả nhóm nghe và sử dụng ma túy. Sau đó, T1 chạy xe đến chung cư G, Quận A cùng với T, N, D, K. Tại đây, N lấy điện thoại gọi vào số 0933333492 cho người đàn ông đã thỏa thuận thuê căn hộ. Một lúc sau, Phạm Anh V1 đến dẫn mọi người lên căn hộ G2 chung cư G, Quận A. Anh V1 mở cửa dẫn mọi người vào bên trong căn hộ G2 rồi hỏi T có ma túy chưa? T trả lời chưa thì Anh V1 lấy trong người ra 01 gói nylon chứa ma túy khay, nói với T bán giá 6.000.000 đồng. T cầm gói ma túy khay Anh V1 đưa vào hỏi N, D, K, T1 thì tất cả đồng ý mua. T đứng ra gom tiền gồm: T 1.000.000 đồng, N 2.000.000 đồng, K 1.000.000 đồng, D 1.000.000 đồng, T1 1.000.000 đồng. T cho thêm Anh V1 100.000 đồng tổng cộng là 6.100.000 đồng đưa cho Anh V1 để mua gói ma túy, đồng thời T bỏ ra thêm 3.000.000 đồng để trả tiền thuê căn hộ mà N đã thỏa thuận trước đó cho Anh V1. Anh V1 bàn giao căn hộ G2 cho N, T, D, K, T1 sử dụng rồi cầm tiền ra về. Sau đó, K nhắn tin cho H biết địa chỉ căn hộ G2 chung cư G, Phường C2, Quận A để H đến cùng sử dụng ma túy. Nhắn tin xong, K để điện thoại tại phòng khách rồi đi vào nhà vệ sinh. Lúc này, điện thoại của K reo, T lấy điện thoại của K nghe thì có người nói là xuống sảnh chung cư G để lấy ma túy 10 viên thuốc lắc giá 3.000.000 đồng. Khi đi vệ sinh ra, T nói K xuống sảnh chung cư G lấy ma túy giá 3.000.000 đồng, K bỏ ra 1.500.000 đồng, N đưa cho K 1.800.000 đồng để lấy ma túy. K một mình cầm tiền đi xuống trước sảnh chung cư G gặp người đàn ông (chưa rõ lại lịch) đang ngồi trên xe gắn máy (không rõ biển số). K đưa cho người đàn ông 3.000.000 đồng và nhận lấy 01 gói nylon bên trong có 10 viên ma túy thuốc lắc màu xanh đem lên căn hộ G2, còn dư 300.000 đồng. K cất giữ riêng nhưng nói với các bạn là cho bảo vệ chung cư G.
Đến gần 00 giờ ngày 04/10/2019, Lê Chí H đi xe Grab đến chung cư G, Quận A và được D dẫn lên căn hộ G2. Khi vào bên trong căn hộ, K nói cho H biết là có người đã đến giao 10 viên thuốc lắc đã nhờ H hỏi đặt mua giùm giá 3.000.000 đồng, K có ứng ra 500.000 đồng cho H để trả tiền ma túy. T nói cho H biết là cả nhóm đã hùn tiền mua 02 gói ma túy và trả tiền thuê căn hộ hết tổng cộng 12.000.000 đồng, nếu H muốn cùng sử dụng ma túy thì phải trả số tiền là 2.000.000 đồng. H nghe vậy đồng ý sử dụng ma túy và hứa sẽ đưa tiền trả cho mọi người sau. Hơn 00 giờ ngày 04/10/2019, T8, T9 và N3 đi taxi đến chung cư G, Quận A. T8 gọi điện thoại cho D xuống đón. D trả tiền taxi 169.000 đồng giùm cho T8, T9, N3 rồi dẫn cả 03 lên căn hộ G2 chung cư G, Quận A. Khi vào bên trong căn hộ, D giới thiệu T8, T9, N3 cho T, N, K, T1 biết thì cả nhóm đồng ý cho T8, T9, N3 cùng vào sử dụng ma túy chung.
Khi tất cả đã có mặt đầy đủ trong căn hộ, Nguyễn Thanh T, Lê Nguyễn Hoài N, Ngô Lý D, Võ Thanh K, Nguyễn Thiết T1 và Lê Chí H, Lý Thị Bảo T8, Lý Thị Cẩm T9, Thạch Thị Mỹ N3 vào phòng ngủ trong căn hộ G2 để sử dụng ma túy chung. Tại đây, cả nhóm đóng cửa lại, bật đèn chiếu, mở nhạc, để ra 10 viên ma túy thuốc lắc và 01 gói ma túy khay đã mua để tất cả cùng sử dụng. T1 chỉnh nhạc xong, thấy gói ma túy khay để trên bàn liền lấy ma túy ra, lấy thẻ card bằng nhựa cà ra để trên dĩa cho mọi người cùng sử dụng bằng cách hít vào cơ thể. T, N, D, K, T1 và H, T8, T9, N3 đã cùng nhau sử dụng ma túy, cụ thể: T sử dụng 1/2 viên thuốc lắc và ma túy khay; N sử dụng 03 lần, mỗi lần 1/2 viên thuốc lắc; D sử dụng 1/2 viên thuốc lắc và ma túy khay; K sử dụng 01 viên thuốc lắc và có ma túy khay; T1 sử dụng ma túy khay; H sử dụng 01 viên thuốc lắc và ma túy khay; T8 sử dụng 02 lần mỗi lần 1/2 viên thuốc lắc và ma túy khay: T9 sử dụng 1/2 viên thuốc lắc; N3 sử dụng 02 lần, mỗi lần 1/2 viên thuốc lắc và ma túy khay. Sau khi sử dụng ma túy xong, tất cả năm ngủ bên trong căn hộ, để trên đầu giường ngủ 03 viên thuốc lắc màu xanh và 01 gói ma túy khay chưa sử dụng hết. Đến 07 giờ 30 phút cùng ngày. Công an Phường C2, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh tiến hành kiểm tra hành chính căn hộ G2 chung cư G, đường K2, Phường C2, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh phát hiện như đã nêu trên.
Qua xác minh căn hộ G2 chung cư G đường K2, Phường C2, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh do ông Ngô Duy K3 là chủ sở hữu. Ông K3 có hợp đồng cho Huỳnh Phúc Minh T10 thuê căn hộ trên giá 16.000.000 đồng/tháng, thời hạn thuê từ ngày 07/7/2019 đến ngày 07/7/2020. Ông K3 khai đã bàn giao căn hộ cho Minh T10, không biết Minh T10 cho các đối tượng thuê căn hộ trên để tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Do đó, Cơ quan điều tra không có cơ sở xử lý đối với ông Ngô Duy K3 về hành vi Chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy, chỉ ghi lời khai của ông K3 với tư cách người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan.
Phạm Anh V1 khai khoảng 23 giờ ngày 03/10/2019, V1 đang ở nhà thì Huỳnh Phúc Minh T10 điện thoại nhờ dẫn khách lên căn hộ G2 chung cư G, đường K2, Phường C2, Quận A để cho thuê và lấy tiền thuê căn hộ. V1 đồng ý, chạy qua quán cà phê trên đường K2, Quận A gặp Minh Tâm. T10 đưa điện thoại có sim số 0933333492 để V1 liên lạc với khách. V1 khai đã dẫn nhóm Lê Nguyễn Hoài N lên căn hộ, bàn giao căn hộ và nhận của nhóm N số tiền 4.000.000 đồng, trong đó có 3.000.000 đồng là tiền thuê căn hộ và 1.000.000 đồng tiền đặt cọc nước uống. Sau đó, V1 đi về quán cà phê gặp Minh T10 đưa 4.000.000 đồng và trả lại điện thoại sim số 0933333492 cho Minh T10. V1 khai không biết mục đích Lê Nguyễn Hoài N và các bạn thuê căn hộ và cũng không thừa nhận đã bán 01 gói ma túy khay (ma túy Ketamine) giá 6.000.000 đồng cho Nguyễn Thanh T. Do chỉ có lời khai nhận của Thanh T, ngoài ra không còn chứng cứ nào khác nên Cơ quan điều tra chưa đủ cơ sở xác định Phạm Anh V1 có hành vi Mua bán trái phép chất ma túy và Chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy. Cơ quan điều tra đã trích hồ sơ để tiếp tục làm rõ hành vi của Phạm Anh V1, khi nào có đủ cơ sở sẽ đề nghị xử lý sau.
Đối với Huỳnh Phúc Minh T10 do ông Ngô Duy K3 khai là người đã thuê căn hộ G2 chung cư G Phường C2, Quận A và Phạm Anh V1 khai đã được Minh T10 nhờ dẫn Lê Nguyễn Hoài N và các bạn lên căn hộ, qua xác minh hiện Minh T10 không có mặt tại địa phương, đi đâu không rõ nên Cơ quan điều tra chưa ghi lời khai được. Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm nhưng chưa có kết quả, nên trích hồ sơ để tiếp tục làm rõ hành vi có dấu hiệu phạm tội Chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy của Minh T10, khi nào có đủ căn cứ sẽ xem xét xử lý sau.
Đối với đối tượng tên Vũ A3 sử dụng điện thoại số 0899995768 do Lê Chí H và Võ Thanh K khai đã liên lạc để mua ma túy thuốc lắc, quá trình điều tra do chưa xác định được N3 thân lai lịch nên chưa có căn cứ xử lý. Cơ quan điều tra tiến hành xác minh nhưng chưa có kết quả nên đã trích hồ sơ để tiếp tục làm rõ, khi nào có đủ căn cứ sẽ xem xét xử lý sau.
Đối với Lý Thị Bảo T8, Lý Thị Cẩm T9 do có hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” và đều dưới 18 tuổi nên đã bị Công an Phường C2, Quận A, Thành phố Hồ Chi Minh ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính mỗi người 750.000 đồng. Riêng Thạch Thị Mỹ N3, do không có nơi cư trú nên bị Tòa án N3 dân Quận A quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc 15 tháng về hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy. Ngoài ra, Lý Thị Bảo T8 khai sau khi được Ngô Lý D rủ đến chung cư G, Quận A để sử dụng ma túy, T8 đã rủ em ruột là Lý Thị Cẩm T9 (14 tuổi 11 tháng) và bạn là Thạch Thị Mỹ N3 cùng đi sử dụng ma túy chung với D. Hành vi của T8 có dấu hiệu đồng phạm với Ngô Lý D về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy và có dấu hiệu của tội Lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy. Tuy nhiên, quá trình điều tra T8 và T9 không có mặt tại địa phương, hiện đi đâu không rõ nên Cơ quan điều tra chưa ghi lời khai được. Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm Lý Thị Bảo T8 và Lý Thị Cẩm T9 nhưng chưa có kết quả nên đã trích hồ sơ để tiếp tục làm rõ, khi nào có đủ căn cử sẽ xem xét xử lý sau.
Tại Cáo trạng số 69/CTr – VKS ngày 11/8/2020 Viện kiểm sát nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh T, Lê Nguyễn Hoài N, Ngô Lý D, Võ Thanh K và Nguyễn Thiết T1 về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Truy tố bị cáo Lê Chí H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Ngày 08/12/2020, Hội đồng xét xử mở phiên tòa và ban hành Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung cho Viện kiểm sát nhân dân Quận A với lý do: Tại phiên tòa các bị cáo đều cho rằng Điều tra viên không khách quan, các bị cáo T, N đã có đơn khiếu nại Kết luận điều tra nhưng chưa có biên bản giải quyết, các bị cáo đề nghị tiếp tục giải quyết việc khiếu nại Kết luận điều tra. Trong quá trình điều tra chưa tiến hành đối chất, làm rõ giữa Ngô Lý D và Lý Thị Bảo Trân, Lý Thị Cẩm T9, Thạch Thị Mỹ N3 để làm rõ hành vi tổ chức sử dụng ma túy của Ngô Lý D, (Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung số: 24/2020/HSST – QĐ ngày 08/12/2020) và hoàn lại hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân Quận A.
Tại Cáo trạng số 11/CT – VKS ngày 29/12/2020 Viện kiểm sát nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo Nguyễn Thanh T, Lê Nguyễn Hoài N, Ngô Lý D, Võ Thanh K và Nguyễn Thiết T1 về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Truy tố bị cáo Lê Chí H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 119/2021/HSST ngày 24/11/2021 của Tòa án nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt Ngô Lý D 08 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung buộc bị cáo D phải chấp hành là 09 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/10/2019.
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt bị cáo Lê Nguyễn Hoài N 06 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung buộc bị cáo N phải chấp hành là 07 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/10/2019.
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh T 03 năm 06 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung buộc bị cáo T phải chấp hành là 05 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/10/2019.
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt bị cáo Võ Thanh K 03 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung buộc bị cáo T phải chấp hành là 04 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/10/2019.
Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249; khoản 1 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 55; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt bị cáo Nguyễn Thiết T1 02 năm 06 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tổng hợp hình phạt chung buộc bị cáo T phải chấp hành là 04 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/10/2019.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Xử phạt bị cáo Lê Chí H 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 04/10/2019.
Căn cứ khoản 5 Điều 249; khoản 5 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Phạt tiền các bị cáo Nguyễn Thanh T, Lê Nguyễn Hoài N, Ngô Lý D, Võ Thanh K, Nguyễn Thiết T1 và Lê Chí H mỗi bị cáo phải nộp phạt số tiền 10.000.000 đồng để sung vào ngân sách Nhà nước.
Ngoài ra, bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo của các bị cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Ngô Lý D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 07/12/2021 Viện kiểm sát nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định kháng nghị số 01/KN-VKSQ4, đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử đối với hành vi của các bị cáo Nguyễn Thanh T, Lê Nguyễn Hoài N, Võ Thanh K, Nguyễn Thiết T1 đồng phạm với Ngô Lý D về việc tổ chức cho Lý Thị Bảo T8 (17 tuổi 10 tháng), Lý Thị Cẩm T9 (14 tuổi 11 tháng), Thạch Thị Mỹ N3 cùng sử dụng trái phép chất ma túy. Tuyên buộc các bị cáo phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) theo đúng quy định của pháp luật.
Ngày 23/12/2021, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ra quyết định kháng nghị số 06/QĐ-VKS đề nghị hủy bản án hình sự sơ thẩm số 119/2021/HS-ST ngày 24/11/2021 để điều tra xét xử lại theo thủ tục chung vì cho rằng: Bản án hình sự sơ thẩm xét xử bị cáo Lê Chí H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với hành vi tàng trữ 1,1373 gam MDMA là bỏ lọt hành vi tàng trữ trái phép 1,6420 gam Ketamine. Ngoài ra, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cho rằng bị cáo Lê Chí H có hành vi đồng phạm với các bị cáo Nguyễn Thanh T, Lê Nguyễn Hoài N, Võ Thanh K, Nguyễn Thiết T1 trong việc mua ma túy và cho Lý Thị Bảo T8, Lý Thị Cẩm T9 (02 người từ đủ 13 đến 18 tuổi) và Thạch Thị Mỹ N3 sử dụng trái phép chất ma túy nhưng cấp sơ thẩm không xem xét, xử lý bị cáo H cùng các bị cáo Nguyễn Thanh T, Lê Nguyễn Hoài N, Võ Thanh K, Nguyễn Thiết T1 về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” cho các đối tượng T8, T9 và N3 sử dụng trái phép chất ma túy là có dấu hiệu bỏ lọt hành vi phạm tội và người phạm tội.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung, phân tích tính chất vụ án đã đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hủy bản án hình sự sơ thẩm số 119/2021/HS-ST ngày 24/11/2021 để điều tra, xét xử lại theo thủ tục chung.
Các bị cáo Ngô Lý D, Nguyễn Thanh T, Lê Nguyễn Hoài N, Võ Thanh K, Nguyễn Thiết T1, Lê Chí H không đồng ý với kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Quận A và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Các bị cáo cho rằng các bị cáo không phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” cho 03 đối tượng T8, T9, N3. Bị cáo Ngô Lý D khai chỉ rủ T8 đến để dìu khi sử dụng ma túy chứ không phải để rủ đến để sử dụng trái phép chất ma túy, bị cáo không cho các bị cáo khác trong nhóm biết việc có rủ thêm 03 bạn nữ đến. Các bị cáo Nguyễn Thanh T, Lê Nguyễn Hoài N, Võ Thanh K, Nguyễn Thiết T1 khai không biết việc bị cáo D rủ thêm T8, T9, N3. Bị cáo H khai bị cáo chủ động xin K đến sử dụng ma túy và chỉ biết đến sử dụng chung với K chứ không biết có cả nhóm đến. Bị cáo K khai không nói cho những người khác trong nhóm biết H đến.
Luật sư Nguyễn Thị Hà T2 bào chữa cho bị cáo Võ Thanh K trình bày: Luật sư cho rằng không có căn cứ cho thấy việc K tổ chức cho T8, T9, N3 sử dụng ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử đánh giá đúng ý chí của D khi rủ T8 đến qua tin nhắn giữa D và T8. Ngoài ra, luật sư cho rằng có nhiều mâu thuẫn trong lời khai của các bị cáo nhưng chưa được đối chất với 03 đối tượng nữ, cũng chưa làm rõ được việc T8, T9, N3 sử dụng ma túy trước hay sau khi đến căn hộ. Do vậy, luật sư không đồng ý xét xử bị cáo K 02 tội danh “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng vụ án đã kéo dài, nhiều lần trả hồ sơ điều tra bổ sung mà không có thu thập thêm được chứng cứ nào mới. Do đó, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
Luật sư Từ Ngọc Trấn Đ bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh T trình bày:
Luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xác định rõ ý chí thực của việc D rủ 03 đối tượng nữ đến căn hộ, việc D rủ họ đến để dìu chứ không phải để sử dụng ma túy. Luật sư cũng cho rằng việc không có mặt T8, T9, N3 để đối chất làm rõ là không đảm bảo tố tụng, Luật sư cũng cho rằng lời khai của T8, T9, N3 tại cơ quan điều tra không có mặt người đại diện của họ là không được thu thập đúng theo trình tự nên không được dùng làm căn cứ để buộc tội bị cáo. Vì không có căn cứ nào chứng minh việc bị cáo T hướng dẫn và đưa ma túy và 03 đối tượng T8, T9, N3 nên luật sư cho rằng không có căn cứ buộc bị cáo T chịu tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Đối với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, luật sư đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho bị cáo T các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự vì bị cáo là lao động chính trong gia đình, con còn nhỏ.
Luật sư Đặng Hoài V bào chữa cho bị cáo Lê Nguyễn Hoài N vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Lê Nguyễn Hoài N.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, người bào chữa, các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Quyết định kháng nghị số 01/KN-VKSQ4 ngày 07/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Quận A và quyết định kháng nghị số 06/QĐ-VKS ngày 23/12/2021 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong thời hạn là hợp lệ.
Xét nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Quận A và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Hội đồng xét xử xét thấy:
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thanh T, Lê Nguyễn Hoài N, Võ Thanh K và Nguyễn Thiết T1 không thừa nhận việc cùng tổ chức cho T8, T9 và N3 sử dụng trái phép chất ma túy vì cho rằng các bị cáo không quen biết gì với 03 đối tượng nữ là T8, T9 và N3, 03 đối tượng này do D rủ đến sử dụng ma túy và và đến lúc nào thì các bị cáo đều không hay biết. Các bị cáo thừa nhận tội danh “Tàng trữ trái phép chất ma túy” như cáo trạng truy tố. Bị cáo D thừa nhận có rủ các đối tượng nữ là T8, T9, N3 đến căn hộ nhưng để “bay” chung cho vui chứ không phải rủ sang sử dụng ma túy. Bị cáo D không đồng ý với tội danh tổ chức cho T8, T9, N3 sử dụng trái phép chất ma túy như cáo trạng truy tố.
Mặc dù các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm không thừa nhận hành vi phạm tội, nhưng căn cứ vào lời khai ban đầu của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có cơ sở xác định:
Khoảng 22 giờ ngày 03/10/2019, các bị cáo D, T, N, K, T1 trong lúc ngồi ăn uống chung đã thống nhất thuê một căn hộ và mua ma túy để cùng sử dụng. N đứng ra hỏi thuê căn hộ G2 chung cư G, đường K2, Phường C2, Quận A với giá 3.000.000 đồng. Còn K liên lạc với Lê Chí H nhờ mua giùm 10 viên thuốc lắc đem đến căn hộ. H ngõ lời xin K được đến sử dụng chung. K sau khi hỏi ý kiến cả nhóm thì cả nhóm đồng ý. H thống nhất chia tiền thuê phòng và tiền mua ma túy. Đến gần 23 giờ ngày 03/10/2019, khi đến căn hộ, các bị cáo D, T, N, K, T1 đồng ý cùng mua 6.000.000 đồng ma túy khay. K là người xuống sảnh chung cư trả tiền 3.000.000 đồng để mua 10 viên thuốc lắc. Đến 00 giờ ngày 04/10/2019 khi H đến căn hộ, K nói cho H biết là đã có người đến giao 10 viên thuốc lắc do H đặt mua. K đã ứng ra 500.000 đồng cho H để trả tiền mua ma túy. T nói cho H biết là cả nhóm đã hùn tiền mua 02 gói ma túy và trả tiền thuê căn hộ hết 12 triệu đồng. H đồng ý sử dụng ma túy và hứa sẽ trả tiền cho mọi người sau. Hơn 00 giờ ngày 04/10/2019, T8, T9 và N3 đến căn hộ và D là người dẫn lên. D giới thiệu T8, T9, N3 cho T, N, K, T1 thì cả nhóm đồng ý cho vào sử dụng ma túy chung. Sau đó, cả nhóm cùng nhau sử dụng ma túy.
Hội đồng xét xử xét thấy H khi đến căn hộ để cùng sử dụng ma túy thì được T thông báo tổng số tiền thuê căn hộ và mua ma túy là 12.000.000 đồng, mỗi người góp 2.000.000 đồng, H đồng ý và hứa sẽ trả tiền sau. Do đó, khi bị bắt quả tang và thu giữ số ma túy còn lại tại căn hộ gồm 1,6420 gam Ketamine và 1,1373 gam MDMA thì bị cáo H phải chịu trách nhiệm hình sự cùng với các bị cáo khác về tội tàng trữ trái phép chất ma túy với tổng khối lượng ma túy đã thu giữ như trên.
Ngoài ra, các bị cáo D, T, K, N, T1, H đã cùng thống nhất để cho các đối tượng nữ là Lý Thị Bảo T8 (17 tuổi 10 tháng), Lý Thị Cẩm T9 (14 tuổi 11 tháng) và Thạch Thị Mỹ N3 đến sử dụng trái phép chất ma túy. Mặc dù tại phiên tòa các bị cáo không thừa nhận tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho 03 đối tượng nữ nêu trên, tuy nhiên căn cứ vào hồ sơ vụ án có đủ cơ sở xác định sau khi 03 đối tượng nữ lên căn hộ thì cả nhóm mới bắt đầu sử dụng ma túy, như vậy các bị cáo đều có nhận thức chung về việc cùng hùn tiền thuê phòng sử dụng ma túy, các bị cáo đều sở hữu chung số ma túy, do đó khi các bị cáo thống nhất ý thức hoặc bỏ mặc cho 03 đối tượng sử dụng ma túy như lời khai của các bị cáo là có dấu hiệu của việc cung cấp trái phép chất ma túy cho người khác sử dụng. Do vậy, kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về hành vi của các bị cáo T, K, N, T1, H về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” cho 03 đối tượng nữ sử dụng nữ là có căn cứ. Trong đó có 02 đối tượng T8 và T9 là người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi nhưng cấp sơ thẩm không xem xét xử lý hành vi của các bị cáo T, K, N, T1 về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và không truy tố bị cáo Lê Chí H về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” với vai trò đồng phạm với các bị cáo trên là có dấu hiệu bỏ lọt hành vi phạm tội và người phạm tội. Từ đó xét thấy kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Quận A là có cơ sở. Lời bào chữa của các luật sư là không có căn cứ chấp nhận.
Do vậy, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh hủy bản án hình sự sơ thẩm để điều tra, truy tố, xét xử lại theo thủ tục chung.
Do chấp nhận kháng nghị nên không xem xét kháng cáo của bị cáo Ngô Lý D.
[3] Các vấn đề khác: Các bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 1 Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 119/2021/HSST ngày 24/11/2021 của Tòa án nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Giao toàn bộ hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh để chuyển Viện kiểm sát nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh điều tra, truy tố, xét xử lại theo thủ tục chung.
2. Tiếp tục tạm giam các bị cáo Ngô Lý D, Nguyễn Thanh T, Lê Nguyễn Hoài N, Võ Thanh K, Nguyễn Thiết T1, Lê Chí H đến khi Viện kiểm sát nhân dân Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý lại hồ sơ vụ án.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 130/2022/HS-PT
Số hiệu: | 130/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 06/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về