Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 118/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 118/2023/HS-PT NGÀY 11/04/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 4 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 38/2023/TLPT-HS ngày 13 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Thị Quỳnh N do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 574/2022/HS-ST ngày 23 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

- Bị cáo có kháng cáo:

Nguyễn Thị Quỳnh N, tên gọi khác: Không, sinh năm 1994, tại Nghệ An; HKTT: xóm A, xã B, huyện N, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Nhà trọ A, tổ B, khu phố C, phường T, thành phố H, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Kim Đ, sinh năm 1969 (đã chết) và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1974; chồng là Nguyễn Văn T, sinh năm 1991; có 03 con, lớn nhất sinh năm 2015, nhỏ nhất sinh năm 2022; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt quả tang và bị tạm giữ từ ngày 20/5/2021 đến ngày 28/5/2021 bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay – có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông Hoàng Văn S – Luật sư thuộc Văn phòng luật sư VNC, Đoàn Luật sư thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào tháng 12/2020, Nguyễn Thị Quỳnh N thuê phòng trọ số 03 nhà số 104, tổ 17A, khu phố 2, phường Bình Đa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai của bà Trần Thị D (sinh năm 1957) để ở. Đến tháng 05/2021, N nảy sinh ý định sử dụng căn phòng nêu trên làm địa điểm cho người nghiện thuê để sử dụng trái phép chất ma túy nhằm thu lợi. Thực hiện ý định trên, N mua và chuẩn bị các dụng cụ gồm: Loa Bluetooth nghe nhạc, Ipad, đèn nháy, đĩa sứ để phục vụ cho việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

Khoảng 15 giờ 30 phút ngày 20/05/2021, Ngô Châu T (tên gọi khác: T1, sinh năm 1980) gặp đối tượng tên N1 (Không rõ lai lịch, địa chỉ) tại khu vực ngã tư Vũng Tàu. N1 nói cho T biết là N1 đang có ma túy (Hàng khay), đồng thời N1 nhờ T tìm địa điểm và rủ thêm bạn là nữ giới để cùng sử dụng ma túy, N1 sẽ trả tiền thuê địa điểm. Sau đó, T rủ Nguyễn Ngọc T2 (sinh năm 1999, ngụ tại khu phố A, phường B, thành phố H, tỉnh Đồng Nai) và Cao Thị G (sinh năm 1996, ngụ ấp S, xã K, huyện Đ, tỉnh Kiên Giang) sử dụng ma túy và T1 nhờ T2 tìm địa điểm để cả nhóm sử dụng ma túy, T2 đồng ý.

Khoảng 15 giờ 40 phút cùng ngày, T2 gọi điện thoại qua zalo cho Nguyễn Thị Quỳnh N để thuê phòng của N. N và T2 thỏa thuận và thống nhất giá thuê là 2.000.000đ (Hai triệu đồng)/06 giờ. Sau đó, T2 cùng T, G và N1 đến gặp N. N dẫn nhóm T2 vào phòng trọ của N. Tại đây, N mở nhạc, bật đèn nháy và lấy 01 đĩa sứ cho nhóm T2 sử dụng ma túy. T nhận tiền của N1 và đưa trước cho N 1.000.000đ (Một triệu đồng) tiền thuê phòng. N1 lấy gói ma túy tổng hợp (Hàng khay) mang theo bỏ ra đĩa sứ rồi N1, T, T2 và G cùng sử dụng ma túy. Khoảng 15 phút sau, N1 bỏ đi ra ngoài, còn T, T2 và G vẫn tiếp tục sử dụng ma túy.

Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Biên Hòa kết hợp cùng Công an phường Bình Đa kiểm tra phát hiện bắt quả tang N đang tổ chức cho T2, T, G sử dụng trái phép chất ma túy.

* Vật chứng vụ án:

- 01 (Một) gói nylon chứa tinh thể màu trắng được thu giữ trên đĩa sứ đặt trên nệm (Niêm phong có chữ ký Nguyễn Thị Quỳnh N gửi giám định). Các đồ vật phục vụ cho việc sử dụng trái phép chất ma túy gồm: 01 (Một) đĩa sứ hình tròn; 01 (Một) máy Ipad số sêri DMPW 4CXZJF8K; 01 (Một) loa Bluetooh không rõ hiệu; 01 (Một) đèn nháy nhiều màu không rõ hiệu, 01 (Một) thẻ card;

01 (Một) tờ tiền mệnh giá 2.000đ (Hai nghìn đồng); 1.000.000đ (Một triệu đồng) do N1 đưa T trả tiền thuê địa điểm cho N;

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Iphone, số Imel 3572710965787 của N sử dụng liên lạc với T2 trao đổi cho thuê địa điểm sử dụng ma túy;

Tại Kết luận giám định số 1071/KLGĐ-PC09 ngày 25/5/2021, Giám định viên Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng: 0,4196 gam, loại: Ketamine.

Đối với Ngô Châu T, Nguyễn Ngọc T2: Sau khi xảy ra vụ án, Cơ điều tra tiến hành triệu tập T và T2 để làm rõ việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nhưng T và T2 bỏ đi khỏi nơi cư trú.

Tại bản Cáo trạng số 596/CT-VKSBH-HS ngày 29/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị Quỳnh N về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 574/2022/HS-ST ngày 23/12/2022, Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa đã áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo 07 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án (Thời gian bị tạm giữ từ ngày 20/5/2021 đến ngày 28/5/2021 được trừ vào thời gian chấp hành án). Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, nghĩa vụ chịu án phí, quyền kháng cáo theo luật định.

Tại đơn kháng cáo đề ngày 28/12/2022, bị cáo đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt. Tại đơn kháng cáo bổ sung đề ngày 03/3/2023, bị cáo cho rằng không thực hiện các hành vi mở nhạc, bật đèn nháy và lấy đĩa sứ để các đối tượng nêu trên sử dụng ma túy nên hành vi của cáo thực hiện không cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện, đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt.

- Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ và lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa, có đủ cơ sở xác định hành vi của bị cáo phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” như án sơ thẩm đã tuyên. Cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xử phạt bị cáo mức án 07 năm tù là phù hợp, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đối với việc sau khi phạm tội bị cáo có thai, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét theo quy định.

- Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo: Hành vi của bị cáo là cho các đối tượng nghiện thuê phòng để sử dụng ma túy và hưởng tiền cho thuê nên bị cáo phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 256 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo đã thành khẩn khai báo, có con bị khuyết tật, sau khi phạm tội có thai, phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra, đề nghị Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét hành vi của các đối tượng Ngô Châu T và Nguyễn Ngọc T2.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Bị cáo gửi đơn kháng cáo trong thời hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về tội danh: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thị Quỳnh N khai nhận toàn bộ hành vi đã thực như viện dẫn tại Cáo trạng và Bản án sơ thẩm, phù hợp với tài liệu, chứng cứ được thu thập có tại hồ sơ nên đủ căn cứ kết luận hành vi của bị cáo phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) như án sơ thẩm đã tuyên là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về kháng cáo:

[3.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phạm.

[3.2] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đã được cấp sơ thẩm xem xét áp dụng. Ngoài ra, theo tài liệu có tại hồ sơ thể hiện sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị khởi tố, bị cáo được tại ngoại và có thai, bị cáo có con bị chậm phát triển tâm thần, được xác định là khuyết tật, dạng khuyết tật tâm thần kinh. Theo hướng dẫn tại mục 9 phần I Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Tòa án nhân tối cao về việc thông báo kết quả giải đáp trực tuyến một số vướng mắc trong xét xử thì trường hợp sau khi bị khởi tố bị cáo mới có thai thì Tòa án vẫn áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội là phụ nữ có thai” đối với bị cáo. Như vậy, các tình tiết giảm nhẹ này chưa được cấp sơ thẩm xét nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, áp dụng thêm điểm n khoản 1 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật Hình sự và giảm hình phạt cho bị cáo.

[4] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[5] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai cơ bản phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do bị cáo có con bị khuyết tật, có thai sau khi phạm tội phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận. Luật sư cho rằng hành vi của bị cáo cấu thành tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”, áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra là không phù hợp. Đối với đề nghị của Luật sư về việc xem xét hành vi của đối tượng T và T2, hồ sơ vụ án thể hiện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa đã hai lần trả hồ sơ yêu cầu Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa điều tra bổ sung để làm rõ nhân thân, lai lịch của đối tượng tên N1, Ngô Châu T để xem xét xử lý trách nhiệm hình sự theo quy định; xem xét xử lý hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy của Nguyễn Ngọc T2. Cơ quan điều quan đã tiến hành xác minh nhưng chưa xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng tên N1, các đối tượng T và T2 đã bỏ đi khỏi nơi cư trú, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã ra Quyết định truy tìm và tách ra tiếp tục điều tra làm rõ xử lý sau, thể hiện tại Bản kết luận điều tra bổ sung và Cáo trạng cũng có nêu. Như vậy, hành vi của các đối tượng T, T2 đang được Cơ quan điều tra xem xét xử lý, cấp sơ thẩm cũng đã có nhận định tại bản án nên Hội đồng xét xử phúc thẩm chỉ xem xét kháng cáo của bị cáo.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Quỳnh N, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 574/2022/HS-ST ngày 23 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa.

2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s, n khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Quỳnh N 06 (sáu) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án, thời gian bị tạm giữ từ ngày 20/5/2021 đến ngày 28/5/2021 được trừ vào thời gian chấp hành án.

3. Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Thị Quỳnh N không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

414
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 118/2023/HS-PT

Số hiệu:118/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về