TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 07/2023/HS-PT NGÀY 10/07/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 10 tháng 7 năm 2023 tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị, xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 11/2023/TLPT-HS ngày 10 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo Đỗ Trần Thanh H do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 07/2023/HS-ST ngày 30/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện G, tỉnh Quảng Trị.
Bị cáo có kháng cáo:
Đỗ Trần Thanh H; tên gọi khác: C; sinh ngày: 20/4/1992, tại tỉnh Quảng Trị; nơi cư trú và chỗ ở: Khu phố 2, Phường 5, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Thợ cơ khí; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam.
Con ông Đỗ Thanh T, sinh năm 1964 và bà Trần Thị D, sinh năm 1979; nơi cư trú: Khu phố 2, Phường 5, thành phố Đ, tỉnh Quảng Trị; vợ, con: Chưa có.
Quá trình nhân thân của bị cáo:
- Ngày 17/11/2010, bị TAND tỉnh Quảng Trị xử phạt 48 tháng tù về tội “Cướp tài sản” và “Cưỡng đoạt tài sản” tại Bản án số 45/2010/HSPT; đã chấp hành xong hình phạt.
- Ngày 27/12/2015 bị Công an phường G, thành phố Đ xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.000.000 đồng về hành vi “Đánh bạc”.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 26/8/2022 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện G, tỉnh Quảng Trị.
Bị cáo Đỗ Trần Thanh H và các bị cáo Phan Văn K, Tạ Tấn T, Trần Văn S, Lê Văn Đ bị Tòa án nhân dân huyện G xét xử về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự.
Người bào chữa cho bị cáo Đỗ Trần Thanh H: Ông Võ Sỹ C – Văn phòng Luật sư Võ Sỹ C, Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Trị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 08/8/2022, các bị cáo Phan Văn K, Tạ Tấn T, Trần Văn S và Lê Văn Đ khi đang cùng nhau uống rượu tại nhà bà Cao Thị K1 ở thôn Lâm X, xã Gio M, thì Tạ Tấn T và Phan Văn K khởi xướng việc mua ma tuý về sử dụng; tuy nhiên, do không có tiền nên Trần Văn S đã điện thoại cho Đỗ Trần Thanh H mượn 500.000 đồng và được H đồng ý. Khi T và K đến gặp H lấy tiền đi mua ma tuý thì Lê Văn Đ đã điện thoại cho T thông báo thay đổi địa điểm lấy tiền. Khi K đến gặp H để nhận 500.000 đồng, biết K không đủ tiền để mua ma tuý, H đã đưa thêm cho K 80.000 đồng. K điều khiển xe mô tô 74C1-xxx.54 chở T vào thành phố Đ mua 12 viên ma tuý rồi quay trở lại đón H về nhà bà K1. Tại đây, K đã làm dụng cụ rồi cả nhóm cùng nhau sử dụng ma tuý; T đã vào gọi Nguyễn Văn Hậu dậy cùng sử dụng ma tuý chung. Khi K, T, S, H, Đ và Hậu sử dụng xong 02 viên ma tuý, K tiếp tục làm dụng cụ để sử dụng ma tuý tiếp thì bị Tổ công tác Công an huyện G phát hiện bắt quả tang, thu giữ tại hiện trường 10 viên nén hình trụ tròn nghi là ma túy.
Tại Bản kết luận giám định số 893/KL-KTHS ngày 15 tháng 8 năm 2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận: “10 viên nén hình trụ tròn màu hồng gửi đến giám định có khối lượng 0,9944g là ma túy loại Methamphetamine”.
Tại bản án Hình sự sơ thẩm số 07/2023/HS-ST ngày 30/3/2023 của Tòa án nhân dân huyện G, xử phạt bị cáo Đỗ Trần Thanh H: 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Ngày 10/4/2023, bị cáo Đỗ Trần Thanh H có Đơn kháng cáo với nội dung: Bị cáo nhận thấy Bản án hình sự sơ thẩm xử phạt bị cáo 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù là quá nặng, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Trị đề nghị HĐXX phúc thẩm áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 BLTTHS không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo Đỗ Trần Thanh H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Người bào chữa cho bị cáo đề nghị HĐXX xem xét toàn điện các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS là bị cáo thành khẩn khai báo, đầu thú, có bố được nhà nước tặng thưởng huân chương, xem xét tính chất vai trò đồng phạm của H trong vụ án để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo H.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Đỗ Trần Thanh H phù hợp với các Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự về chủ thể và thời hạn kháng cáo nên Hội đồng xét xử phúc thẩm xét kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Về hành vi, quyết định tố tụng của điều tra viên Công an huyện G, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện G thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến gì hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.
[2] Về hành vi phạm tội: Ngày 08/8/2022, Phan Văn K, Tạ Tấn T, Trần Văn S và Lê Văn Đ khi đang cùng nhau uống rượu tại nhà bà Cao Thị K1 thì Tạ Tấn T và Phan Văn K khởi xướng việc mua ma tuý về sử dụng; tuy nhiên, do không có tiền nên Trần Văn S đã điện thoại cho Đỗ Trần Thanh H mượn 500.000 đồng và được H đồng ý. Khi K đến gặp H để nhận 500.000 đồng, biết K không đủ tiền để mua ma tuý, H đã đưa thêm cho K 80.000 đồng. K điều khiển xe mô tô 74C1- xxx.54 chở T vào thành phố Đ mua 12 viên ma tuý rồi quay trở lại đón H về nhà bà K1. Tại đây, K đã làm dụng cụ rồi cả nhóm cùng nhau sử dụng ma tuý. Hành vi nêu trên của các bị cáo Đỗ Trần Thanh H và các bị cáo khác đã cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” với tình tiết định khung là “Đối với 02 người trở lên” quy định tại khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng quy định của pháp luật, xét xử đúng người đúng tội.
[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:
- Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
- Về tình tiết giảm nhẹ, cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo H được hưởng tình tiết “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51BLHS; được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 BLHS vì bị cáo H sau khi bỏ trốn đã ra đầu thú, bị cáo có bố được nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng 3.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo:
Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có nhận thức về hiểu biết pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy do pháp luật hình sự nghiêm cấm. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, gây mất trật tự tại địa phương.
Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Xét thấy các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo và người bào chữa cho bị cáo đưa ra để làm căn cứ xem xét giảm nhẹ hình phạt đã được cấp sơ thẩm xem xét đầy đủ. Tại phiên tòa, bị cáo không xuất trình thêm tình tiết giảm nhẹ mới.
Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá vai trò, mức độ hành vi của các bị cáo, hành vi của các bị cáo mang tính chất đồng phạm giản đơn, tự phát. Bị cáo H có nhân thân xấu nhưng không chịu tu dưỡng, rèn luyện ngược lại còn cho các bị cáo khác mượn tiền để mua ma túy, vai trò giúp sức thể hiện rất rõ trong chuỗi các hành vi, bị cáo có 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 BLHS. Vì vậy, hình phạt 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù đối với bị cáo H là phù hợp.
Từ những căn cứ trên, HĐXX xét thấy không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Trần Thanh H, cần giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Đỗ Trần Thanh H phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
[5] HĐXX ban hành Quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 BLTTHS: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Trần Thanh H, giữ nguyên bản án sơ thẩm:
Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc Hội:
Tuyên bố bị cáo Đỗ Trần Thanh H phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Đỗ Trần Thanh H: 07 (bảy) năm 03 (ba)tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 26/8/2022.
2. Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Đỗ Trần Thanh H phải chịu 200.000 (Hai trăm nghàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 07/2023/HS-PT
Số hiệu: | 07/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về