Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 05/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÒA BÌNH, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 05/2023/HS-ST NGÀY 11/01/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 01 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 145/2022/HSST ngày 02 tháng 12 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 152/2022/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. BÙI HOÀNG L, sinh năm 1996. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: không. Nơi cư trú: tổ 09, phường Thịnh Lang, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do. Trình độ văn hoá: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: không; Có bố là Bùi Ngọc Q (đã chết) và mẹ là Nguyễn Thị H; Có vợ là Nguyễn Thị Thanh Ph và 01 con sinh năm 2021; Bị cáo là con duy nhất trong gia đình; Tiền án, tiền sự: Không Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ 18/7/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

2. TRỊNH HOÀNG PH, sinh năm 1996. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: Không. Nơi cư trú: tổ 13, phường Đồng Tiến, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Có bố là Trịnh Văn P và mẹ là Vũ Thị H; Vợ con chưa có; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ 18/7/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

3. NGUYỄN CHÍ H, sinh năm 1996. Giới tính: Nam. Tên gọi khác: không. Nơi cư trú: tổ 07, phường Quỳnh L, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình. Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ văn hoá: 12/12; Dân tộc: Mường; Tôn giáo: Không; Có bố là Nguyễn Văn Ng và mẹ là Quách Thị O; Có vợ là Nguyễn Thùy L; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ 18/7/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Công Quang A, sinh năm 1998 (Vắng mặt) Địa chỉ: tổ 06, phường QL, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình

2. Anh Hoàng Hà N, sinh năm 1996 (Vắng mặt) Địa chỉ: tổ 04, phường PL, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 17/7/2022 Bùi Hoàng L và Nguyễn Chí H có cùng nhau đi ăn uống và hát Karaoke tại một quán thuộc phường Hữu Nghị, TP Hòa Bình. Sau khi hát xong, do có nhu cầu muốn sử dụng ma túy nên L có rủ H cùng đi sử dụng ma túy với L. H đồng ý. Sau đó L gọi điện cho Nguyễn Tiến H1 để xin số điện thoại của Trịnh Hoàng Ph (L không nói với H mục đích xin số điện thoại của Ph để làm gì) H1 đồng ý và nhắn tin số điện thoại của Ph vào máy điên thoại của L. Do máy điện thoại của L hết tiền không gọi được nên L có đọc cho H số điện thoại của Ph và nhờ H ấn gọi giúp. Khi H gọi thì chuyển máy cho L nói chuyện với Ph. Qua điện thoại L nhờ Ph mua hộ cho L 01 chỉ Ketamine và 04 viên ma túy tổng hợp và nhờ Ph hỏi xem có lên được số nhà 19, tổ 12, phường Đồng Tiến, TP Hòa Bình sử dụng ma túy được không để L và H lên đó sử dụng ma túy cùng nhau. Ph đồng ý và nói sẽ liên lạc lại sau. Sau khi nói chuyện với Ph xong thì vẫn cầm điện thoại của H và lái xe ô tô BKS 30G–400.91 chở H ra khu vực quảng trường ngồi uống nước.

Trịnh Hoàng Ph đã gọi điện cho Nguyễn Công Quang A hỏi mượn căn nhà số 19, tổ 12, phường Đồng Tiến (là nhà của Quang A đang thuê của chị Nguyễn Thị Thu H2). Quang A đồng ý và cứ nói lên đó sẽ gặp Hoàng Hà N (là người cùng đứng tên thuê nhà với Quang A) mở cửa và đưa chìa khóa cho. Sau đó Ph có liên lạc qua số điện thoại của H, nói đã mượn được nhà và bảo L và H đi lên số nhà 19, tổ 12, phường Đồng Tiến. Lúc này L bảo Ph gọi giúp cho 02 nhân viên nữ lên phục vụ cùng sử dụng ma túy. Ph đồng ý và nói tổng số tiền mua 01 chỉ Ketamine, 04 viên ma túy tổng hợp, 02 nhân viên phục vụ là 7.000.000 đồng. Ph sẽ đi lên nhà số 19 trước để mở cửa.

Khoảng 17 giờ chiều cùng ngày Ph đi xe mô tô BKS 28B1–XXXXX từ nhà đến số nhà 19. Khi đến nơi thì gặp Hoàng Hà N đang đứng trước cổng. Ph bảo N là đã gọi điện cho Quang A để mượn nhà, N đồng ý rồi đi xe máy sang khu vực đường Năng Lượng, thành phố Hòa Bình để đón bạn là Hoàng Mạnh Ng. Ngay lúc đó thì L lái xe ô tô chở H đến. L, Ph và H đi vào trong nhà, lúc này H vào nhà vệ sinh, ngoài phòng khách chỉ còn L và Ph. L đã đưa cho Ph 7.000.000 đồng như đã thỏa thuận. Ph cầm tiền ra ngoài cổng gọi điện thoại của ứng dụng Telegram cho người bán ma túy có tên tài khoản đăng nhập là “Hung Khi”. Ph thỏa thuận với người bán ma túy 04 viên ma túy tổng hợp và 01 chỉ Ketamine với tổng số tiền là 4.500.000 đồng. Ph nói tiền mua ma túy sẽ trả sau và đọc địa chỉ nhận ma túy tại số nhà 19, tổ 12, phường Đồng Tiến để người bán ma túy mang đến. Sau khi gọi điện thoại xong Ph thấy cổng không có chìa khóa nên Ph có gọi điện bảo N quay lại đưa chòa khóa cổng. N đồng ý và bảo tý sẽ quay lại. Sau đó Ph đi về nhà giải quyết công việc cá nhân, trên đường Ph quay lại nhà số 19 thì người bán ma túy gọi điện thoại nói đã để sẵn ma túy ở gốc cây trước cửa nhà và bảo Ph ra đó mà lấy, đồng thời dặn Ph xóa tên đăng nhập của anh ta trên ứng dụng Telegram đi, khi nào cần lấy tiền bán ma túy anh ta sẽ chủ động gọi điện cho Ph. Ph đồng ý và xóa tài khoản “Hung Khi” khỏi ứng dụng Telegram. Khi Ph đi đến số nhà 19 thì gặp N và Ng. N đưa chìa khóa nhà cho Ph rồi N và Ng đi về, còn Ph một mình đi ra gốc cây trước cửa nhà thì thấy có túi nilon bên trong có 04 viên ma túy tổng hợp và 01 gói ma túy Ketamine. Ph cầm số ma túy này mang vào phòng nơi H và L đang ngủ và đặt túi ma túy ở trên mặt bàn rồi Ph đi ra ngoài khóa cổng. Khi ra ngoài Ph gọi điện cho Lê Thị V (là nhân viên rót bia tại các quán Karaoke) và bảo V cùng 01 người nữa lên số nhà 19. Khi Ph ra ngoài gọi điện, trong phòng ngủ L thức dậy hỏi H chưa có gì à? (ý là chưa có ma túy à?) thì H chỉ vào gói ma túy mà Ph đã đặt trên bàn, lúc này Ph cũng vào phòng. L ra bàn lấy một viên ma túy tổng hợp để sử dụng. Sau đó L đưa cho H một viên ma túy để sử dụng nhưng H không sử dụng hết nên đã đưa cho Ph, để Ph cắn sử dụng nửa viên, số còn lại H sử dụng. Sau khi sử dụng ma túy, Ph bật nhạc và đèn nháy rồi cùng L, H nằm nghe nhạc. Khoảng 15 phút sau thì V và Đào Thanh T đến. Ph mở cửa cho V, T vào phòng và L lấy 01 viên ma túy tổng hợp đưa cho V, T sử dụng. V và T mỗi người đã sử dụng nửa viên ma túy và cùng L, H nằm nghe nhạc còn Ph ngồi một mình ở góc phòng. Khoảng 05 phút sau Nguyễn Hòa B gọi điện rủ Ph đi chơi game. Ph bảo đang ở số nhà 19 và rủ B lên chơi. Khi B vào phòng thì Ph đưa cho 01 viên ma túy tổng hợp, B cầm và sử dụng hết. Sau đó Ph lấy khò bằng bình ga hơ nóng chiếc đĩa sứ rồi đổ gói ma túy Ketamine lên đĩa và dùng thẻ xào, chia thành các đường chỉ để sử dụng. Lần lượt Ph, B, L, H, V, T lấy ống hút được quấn bằng tiền mà Ph đã để sẵn trên đĩa hít ma túy qua đường hô hấp (mũi) vào cơ thể. Sau 06 người sử dụng ma túy xong thì ngồi nghe nhạc. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày Nguyễn Tiến H1 gọi điện thoại cho Ph thì được Ph rủ đến số nhà 19 chơi. H1 đã một mình đi xe mô tô đến, Ph ra mở cửa cho H1 vào phòng. L bảo Ph đi mua thêm Ketamine cho mọi người sử dụng. Ph đồng ý và cùng L mở cửa ra ngoài thì ngay lúc này lực lượng công an đã tiến hành kiểm tra, lập biên bản và thu giữ toàn bộ vật chứng.

Tại kết luận giám định số: 206/KL-KTHS ngày 22/7/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận:

“- Các mảnh viên nén màu vàng trong phong bì một mặt có ghi “Vật chứng nghi là ma túy tạm giữ trên bàn bằng khung sắt trong phòng khách số nhà 19, tổ 12, phường Đồng Tiến , TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình thu tại vị trí số 6 ngày 17/7/2022” gửi giám định có tổng khối lượng 0,38g, thành phần phức tạp Phòng PC09 không đủ điều kiện giám định, đề nghị gửi cơ quan giám định cấp trên.

- Các mảnh viên nén màu nau trong phong bì một mặt có ghi “Vật chứng nghi là ma túy tạm giữ trên bàn bằng khung sắt trong phòng khách số nhà 19, tổ 12, phường Đồng Tiến , TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình thu tại vị trí số 6 ngày 17/7/2022” gửi giám định có tổng khối lượng 2,95g, thành phần phức tạp Phòng PC09 không đủ điều kiện giám định, đề nghị gửi cơ quan giám định cấp trên.

- Chất bột màu trắng bám dính trong 02 gói nilon nhỏ trong phong bì số 01 một mặt có ghi “Vật chứng nghi là ma túy tạm giữ trên bàn bằng khung sắt trong phòng khách số nhà 19, tổ 12, phường Đồng Tiến , TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình thu tại vị trí số 6 ngày 17/7/2022” gửi giám định là ma túy, loại ketamine.

ợng chất bột màu trắng bám dính trong 02 gói nilon nhỏ trong phong bì số 01 một mặt có ghi “Vật chứng nghi là ma túy tạm giữ trên bàn bằng khung sắt trong phòng khách số nhà 19, tổ 12, phường Đồng Tiến , TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình thu tại vị trí số 6 ngày 17/7/2022” gửi giám định quá ít, không xác định được khối lượng.

- Viên nén màu xanh và các mảnh viên nén màu xanh trong phong bì 02 một mặt có ghi “Vật chứng nghi là ma túy tạm giữ trên bàn sát tường trong phòng ngủ số nhà 19, tổ 12, phường Đồng Tiến , TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình thu tại vị trí số 7 ngày 17/7/2022” gửi giám định có khối lượng 0,47g là ma túy, loại MDMA.

- Chất bột màu trắng bám dính trên thẻ màu vàng và bên trong 03 ống hình trụ được quấn bằng tờ tiền polime trong phong bì 02 một mặt có ghi “Vật chứng nghi là ma túy tạm giữ trên bàn sát tường trong phòng ngủ số nhà 19, tổ 12, phường Đồng Tiến , TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình thu tại vị trí số 7 ngày 17/7/2022” gửi giám định là ma túy, loại ketamine.

Lượng chất bột màu trắng bám dính trên thẻ màu vàng và bên trong 03 ống hình trụ được quấn bằng tờ tiền polime trong phong bì 02 một mặt có ghi “Vật chứng nghi là ma túy tạm giữ trên bàn sát tường trong phòng ngủ số nhà 19, tổ 12, phường Đồng Tiến , TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình thu tại vị trí số 7 ngày 17/7/2022” gửi giám định quá ít, không xác định được khối lượng.

- Chất bột màu trắng bám dính trên thẻ nhựa và bên trong ống hình trụ được quấn bằng tờ tiền polime trong phong bì 03 một mặt có ghi “Vật chứng nghi có bám dính chất ma túy tạm giữ trong phòng ngủ số nhà 19, tổ 12, phường Đồng Tiến , TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình thu tại vị trí số 8 ngày 17/7/2022” gửi giám định là ma túy, loại ketamine.

ợng chất bột màu trắng bám dính trên thẻ nhựa và bên trong ống hình trụ được quấn bằng tờ tiền polime trong phong bì 03 một mặt có ghi “Vật chứng nghi có bám dính chất ma túy tạm giữ trong phòng ngủ số nhà 19, tổ 12, phường Đồng Tiến , TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình thu tại vị trí số 8 ngày 17/7/2022” gửi giám định quá ít, không xác định được khối lượng.

- Chất bột màu trắng bám dính trên bề mặt đĩa sứ màu trắng được dán giấy niêm phong có ghi chữ “Vật chứng nghi có bám dính chất ma túy tạm giữ trong phòng ngủ số nhà 19, tổ 12, phường Đồng Tiến , TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình thu tại vị trí số 8 ngày 17/7/2022” gửi giám định là ma túy, loại ketamine.

Lượng chất bột màu trắng bám dính trên bề mặt đĩa sứ màu trắng được dán giấy niêm phong có ghi chữ “Vật chứng nghi có bám dính chất ma túy tạm giữ trong phòng ngủ số nhà 19, tổ 12, phường Đồng Tiến , TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình thu tại vị trí số 8 ngày 17/7/2022”gửi giám định quá ít, không xác định được khối lượng.

Kết quả xét nghiệm nước tiểu ngày 03/8/2022 của các đối tượng xác định: Trịnh Hoàng Ph, Bùi Hoàng L, Nguyễn Chí H, Nguyễn Hòa B, Lê Thị V, Đoàn Thanh T đều dương tính với ma túy.

Cáo trạng số: 77/CT-VKS-P1 ngày 30/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hoà Bình truy tố Bùi Hoàng L, Trịnh Hoàng Ph, Nguyễn Chí H về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự.

Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Bùi Hoàng L, Trịnh Hoàng Ph, Nguyễn Chí H phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s, t khoản 1 khoản 2 Điều 51;

Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật Hình để xử phạt Bùi Hoàng L từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt Trịnh Hoàng Ph từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình để xử phạt Nguyễn Chí H từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng các bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của bản thân và xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP Hòa Bình, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân TP Hòa Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi các bị cáo đã thực hiện:

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu được, kết luận giám định cũng như các tài liệu, chứng cứ đã thu giữ, nên có căn cứ xác định: Ngày 17/7/2022 các bị cáo Bùi Hoàng L, Trịnh Hoàng Ph, Nguyễn Chí H đã có hành vi tổ chức cho mình và người khác sử dụng trái phép ma túy (loại ketammine và MDMA) tại nhà số 19, tổ 12, phường Đồng Tiến, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.

Hành vi của các bị cáo là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn, đây còn là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua, cung cấp ma túy, tụ tập, chế biến ma túy để cùng nhau sử dụng bị nghiêm cấm nhưng do coi thường pháp luật, nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân mình và những người khác nên vẫn cố tình thực hiện. Cáo trạng truy tố các bị cáo Bùi Hoàng L, Trịnh Hoàng Ph, Nguyễn Chí H về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

Với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện cần áp dụng hình phạt tù tương xứng, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới để cải tạo, giáo dục và răn đe phòng ngừa tội phạm nói chung.

[3] Về vị trí, vai trò của từng bị cáo trong vụ án:

Đây là vụ án có nhiều đối tượng cùng nhau tham gia thực hiện tội phạm nhưng giữa các bị cáo không có sự bàn bạc, chỉ đạo, điều hành, phân công trách nhiệm, vai trò của từng người một cách rõ ràng, chặt chẽ nên chỉ là đồng phạm giản đơn. Trong vụ án này, bị cáo L là người khởi xướng và đưa tiền cho Trịnh Hoàng Ph, để Ph mua ma túy và thuê nhân viên phục vụ do đó phải chịu trách nhiệm chính. Bị cáo Ph lại là người thực hành tích cực, trực tiếp chuẩn bị địa điểm, liên hệ mua ma túy, chế biến ma túy (xào ke), rủ rê và gọi những người khác đến sử dụng ma túy, nên phải chịu trách nhiệm sau bị cáo L là phù hợp.

Đối với Nguyễn Chí H mặc dù biết rõ L, Ph tổ chức việc sử dụng ma túy trái phép nhưng H đã tiếp nhận ý chí bằng việc đi cùng L, đưa điện thoại cho L để L liên hệ với Ph, chỉ cho L số ma túy Ph đã mua và trực tiếp đưa ma túy cho Ph sử dụng. H tham gia với vai trò là người giúp sức và có mức hình phạt thấp hơn các đồng phạm khác.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân người phạm tội:

Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa tiền án tiền sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Qúa trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân. Riêng bị cáo Bùi Hoàng L, ngày 15/11/2022 Phòng CSĐTTP về ma túy Công an tỉnh Hòa Bình đã có công văn số: 835/CAT-PC04 về việc đề nghị xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo vì đã giúp cơ quan điều tra sớm kết thúc được vụ án và đã tích cực hợp tác, cung cấp thông tin có giá trị giúp cơ quan điều tra củng cố tài liệu chứng cứ, khai thác mở rộng các vụ án khác về ma túy. Bị cáo L có bố đẻ là thương binh, ông nội là người có công với cách mạng và chú ruột là liệt sĩ.

Đối với bị cáo Trịnh Hoàng Ph từ năm 2016 đến 2019 đã tham gia nghĩa vụ làm chiến sĩ tại Phòng Cảnh sát PCCC và cứu nạn cứu hộ Công an tỉnh Hòa Bình (Năm 2018 Ph đã được công nhận danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở). Bị cáo có ông nội, ông ngoại đều là những người có công với cách mạng Đối với bị cáo Nguyễn Chí H từ năm 2015 đến 2018 đã tham gia và hoàn thành nghĩa vụ làm chiến sĩ tại Phòng Cảnh sát PCCC và cứu nạn cứu hộ Công an tỉnh Hòa Bình Bị cáo có ông ngoại là liệt sĩ và cụ ngoại là bà mẹ Việt Nam anh hùng (bà Bùi Thị T).

Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51của Bộ luật Hình sự, được áp dụng khi quyết định hình phạt đối với từng bị cáo.

Căn cứ vào vị trí, vai trò, tính chất hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội, HĐXX xét thấy bị cáo Bùi Hoàng L có 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Các bị cáo Trịnh Hoàng Ph và Nguyễn Chí H tham gia với vị trí, vai trò sau bị cáo L trong vụ án nên có thể áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS để quyết định cho các bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của hình phạt được áp dụng và trong khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có việc làm, thu nhập nên không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung.

[6] Về nguồn gốc ma túy: Trịnh Hoàng Ph khai nhận đã mua ma túy của một người từ tài khoản telegram “Hung Khi”. Quá trình điều tra do không xác định được tên tuổi, địa chỉ cụ thể của đối tượng trên nên không có căn cứ để giải quyết trong vụ án này.

[7] Về hành vi của những cá nhân khác trong vụ án:

- Đối với Lê Thị V, Đào Thanh T, Nguyễn Hòa B, qúa trình điều tra xác định không liên quan đến việc bàn bạc, phân công, thực hiện các hành vi chuẩn bị cho việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nên không xem xét trách nhiệm hình sự. Cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy đối với các đối tượng trên là đúng với quy định của pháp luật.

- Đối với bà Nguyễn Thu H (là chủ sở hữu nhà số 19, tổ 12, phường Đồng Tiến, TP Hòa Bình) và Nguyễn Công Quang A, Hoàng Hà N là người cùng đứng tên thuê căn nhà trên. Quá trình điều tra xác định Quang A và N không biết việc Trịnh Hoàng Ph mượn nhà để tổ chức sử dụng ma túy nên cơ quan CSĐT không đề cập xử lý là phù hợp.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 0,47g ma túy MDMA thu giữ trên bàn tròn sát tường trong phòng ngủ bên trái cạnh phòng khách trong nhà số 19, tổ 12, phường Đồng Tiến, TP Hòa Bình ngày 17/7/2022. Do chưa làm rõ được nguồn gốc số ma túy trên nên ngày 15/11/2022 Cơ quan CSĐT (PC04) – Công an tỉnh Hòa Bình đã tách vụ án để tiếp tục điều tra, làm rõ nên Hội đồng xét xử không xem xét.

- Đối với xe mô tô BKS: 28S7–xxxx, quá trình điều tra xác định chiếc này nằm trong vụ việc do Công an thành phố Hòa Bình đang giải quyết nên ngày 11/11/2022 Cơ quan điều tra đã giao chiếc xe trên cho Công an thành phố Hòa Bình nên Tòa không xét trong vụ án này.

- Đối với các vật chứng gồm 01 hộp niêm phong có chứa 02 thẻ nhựa cứng, 01 đĩa sứ, 04 vỏ đầu lọc thuốc lá, 01 túi nilon màu trắng; 01 phong bì niêm phong có chứa các viên nén màu vàng, nâu hoàn trả sau giám định; 01 khò bình ga; 02 chai nước đã qua sử dụng; 01 đèn nháy; 02 đèn chiếu màu sắc là các công cụ, phương tiện phạm tội không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 02 camera màu trắng đen và 01 loa màu đen thu giữ tại căn nhà số 19, tổ 12, phường Đồng Tiến là tài sản hợp pháp của Nguyễn Công Quang A nên cần trả lại.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen của Bùi Hoàng L, 01 điện thoại di động màu xanh đen của Trịnh Hoàng Ph và 01 điện thoại di động màu tím đen của Nguyễn Chí H. HĐXX xét thấy các bị cáo đã sử dụng điên thoại trên để liên lạc, tổ chức việc sử dụng ma túy. Đây là những phương tiện phạm tội vẫn còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 03 sim điện thoại Viettel, thu giữ bên trong máy điện thoại của bị cáo L, bị cáo Ph, bị cáo H, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 giấy phép lái xe mang tên Bùi Hoàng L, 01 căn cước công dân mang tên Trịnh Hoàng Ph, 01 giấy phép lái xe mang tên Trịnh Hoàng Ph xét thấy không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho các bị cáo.

- Đối với 04 tờ tiền polime mệnh giá 10.000 đồng được các bị cáo sử dụng làm tẩu hít ma túy và 7.000.000 đồng thu giữ từ bị cáo Ph là tiền bị cáo L thanh toán cho việc mua ma túy và trả tiền nhân viên phục vụ, cần tịch thu sung qũy Nhà nước.

[9] Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/ 2016/ UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, mỗi bị cáo Bùi Hoàng L, Trịnh Hoàng Ph, Nguyễn Chí H phải chịu án phí hình sự 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bùi Hoàng L, Trịnh Hoàng Ph, Nguyễn Chí H phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s, t khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Bùi Hoàng L 05 (Năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 18/7/2022.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Trịnh Hoàng Ph 05 (Năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 18/7/2022.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Nguyễn Chí H 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 18/7/2022.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01hộp niêm phong dán kín, một mặt có ghi “Mẫu vật còn lại sau khi giám định vụ: Tổ chức sử dụng trái phép chất am túy, xảy ra ngày 17/7/2022 tại: phường Đồng Tiến, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình”. Mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình.

- Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong dán kín, một mặt có ghi “Bộ Công an, Viện khoa học hình sự số: 4885/C09(TT2), Cơ quan CSĐT(PC04) – Công an tỉnh Hòa Bình”. Mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và dấu tròn đỏ của Viện Khoa học hình sự - Bộ Công an.

- Tịch thu tiêu hủy 02 đèn chiếu màu sắc đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng máy móc bên trong; 02 chai nước đã qua sử dụng; 01 khò bình ga đã qua sử dụng; 01 đèn nháy đã qua sử dụng.

- Tịch thu tiêu hủy 03 sim Viettel đã qua sử dụng đã thu giữ của Bùi Hoàng L, Trịnh Hoàng Ph và Nguyễn Chí H.

- Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu NOKIA màu đen (Điện thoại cũ đã quan sử dụng thu giữ của Bùi Hoàng L); 01 điện thoại di động màu xanh đen (Điện thoại cũ đã qua sử dụng thu giữ của Trịnh Hoàng Ph); 01 điện thoại di động màu tím đen (Điện thoại cũ đã qua sử dụng thu giữ của Nguyễn Chí H).

- Trả lại cho bị cáo L 01 giấy phép lái xe số: 170143907301 mang tên Bùi Hoàng L.

- Trả lại cho bị cáo Ph 01 căn cước công dân số: 017096000221; 01 giấy phép lái xe số: 170150892115 mang tên Trịnh Hoàng Ph.

- Trả lại cho Nguyễn Công Quang A 02 camera màu trắng đen đã quan sử dụng thu giữ tại căn nhà số 19, tổ 12, phường Đồng Tiến, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình (Bên trong có 02 thẻ nhớ) và 01 loa màu đen đã qua sử dụng.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 40.000 đồng (Bốn mươi nghìn đồng) được niêm phong trong phong bì dán kín, một mặt có ghi Phong bì số 1 “Niêm phong tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã qua giám định có tổng giá trị 40.000đ là vật chứng thu giữ trong vụ: Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, Tàng trữ trái phép chất ma túy, xảy ra tại số nhà 19, tổ 12, phường Đồng Tiến, TP Hòa Bình ngày 17/7/2022”. Mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT – Công an tỉnh Hòa Bình.

- Tịch thu sung qũy Nhà nước số tiền 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng) được niêm phong trong phong bì dán kín, một mặt có ghi Phong bì số 2 “Niêm phong tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã qua giám định có tổng giá trị 7.000.000đ là vật chứng thu giữ trong cốp chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Airblade màu trắng, BKS: 28B1–XXXXX của Trịnh Hoàng Ph, sinh năm 1996, trú tại: tổ 13, phường Đồng Tiến, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình ngày 17/7/2022”. Mép dán có chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong và dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT – Công an tỉnh Hòa Bình.

(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hòa Bình theo biên bản giao nhận vật chứng số 24/BB ngày 19/12/2022 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hòa Bình và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hòa Bình).

3. Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Mỗi bị cáo Bùi Hoàng L, Trịnh Hoàng Ph, Nguyễn Chí H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

24
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 05/2023/HS-ST

Số hiệu:05/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về