Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 74/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU ĐỨC, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 74/2023/HS-ST NGÀY 22/08/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Đức xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 67/2023/HSST, ngày 16/6/2023, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 67/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 8 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Lê Văn T; sinh năm: 2000 tại Đ Nơi cư trú: Tổ 3, ấp 5, xã Lâm S, huyện Cẩm M, tỉnh Đ; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; con ông Lê Văn N; sinh năm: 1974 (đã chết); con bà Nguyễn Thị P; sinh năm: 1974; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 14/02/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Châu Đức “Có mặt”;

2. Trần Thế H (Tên thường gọi: Ne); sinh năm: 1990 tại Q.

Nơi cư trú: Thôn Sơn T, xã Xuân S, huyện C, tỉnh B; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Phật giáo; con ông Trần Viết T; sinh năm: 1949; con bà Nguyễn Thị S (đã chết); tiền sự: Không; tiền án: Không; nhân thân: ngày 14/01/2009, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa vũng Tàu xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 29/3/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 14/11/2012, bị Công an huyện Châu Đức ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị bắt truy nã từ ngày 30/4/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Châu Đức “Có mặt”;

3. Trần H1; sinh năm: 1994 tại B Nơi cư trú: Ấp Tân B, xã Sơn B, huyện C, tỉnh B; nghề nghiệp: Thơ sơn nước; trình độ văn hoá: 6/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; con ông Trần H; sinh năm: 1956; con bà Nguyễn Thị M; sinh năm: 1955; có vợ là Phạm Thị Thu H; sinh năm: 1994; tiền sự: Không; tiền án: Không;

bị bắt tạm giam từ ngày 19/4/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Châu Đức “Có mặt”;

4. Nguyễn Văn Q; tên gọi khác: Bờm; sinh năm: 1990 tại B Nơi cư trú: Ấp Tân B, xã Sơn B, huyện C, tỉnh B; nghề nghiệp: Thợ sơn nước; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Phật giáo; con ông Nguyễn Đ; đã chết; con bà Phạm Thị R; sinh năm: 1949; tiền sự: Không; tiền án: Không; Hiện bị can đang được tại ngoại tại ấp Tân B, xã Sơn B, huyện C, tỉnh B. “Có mặt”;

5. Diệp Mạnh H; tên gọi khác: R; sinh năm: 1989 tại Bà Rịa – Vũng Tàu. Nơi cư trú: Ấp Sơn T, xã Sơn B, huyện C, tỉnh B; nghề nghiệp: Thợ sơn nước; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Phật giáo; con ông Diệp Văn H (đã chết); con bà Nguyễn Thị H; sinh năm: 1960; có vợ là Nguyễn Thị P; Sinh năm: 1993; Có 01 người con sinh năm 2016; tiền sự:

Không; tiền án: Không; nhân thân: Ngày 09/4/2008, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị bắt tạm giam từ ngày 18/4/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Châu Đức “Có mặt”;

6. Nguyễn Xuân Th; tên gọi khác: Cu Th; sinh năm: 1998 tại Bà Rịa – Vũng Tàu.

Nơi cư trú: Ấp Tân B, xã Sơn B, huyện C, tỉnh B; nghề nghiệp: Thợ sơn nước; trình độ văn hoá: 8/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; con ông Nguyễn Xuân T; sinh năm: 1968; con bà Lương Thị T; sinh năm: 1967; tiền sự: Không; tiền án: Không. Bị bắt tạm giam từ ngày 19/4/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Châu Đức “Có mặt”;

7. Dương Văn Tr; tên gọi khác: Đ; sinh năm: 1989 tại B.

Nơi cư trú: ấp Sơn T, xã Sơn B, huyện C, tỉnh B; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Phật giáo; con ông Dương Văn A; sinh năm: 1945; con bà Nguyễn Thị O; sinh năm: 1952; tiền sự: Không; tiền án: Không. Bị bắt tạm giam từ ngày 18/4/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Châu Đức “Có mặt”;

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Ông Nguyễn Bá L (N), sinh năm 1992.

2. Ông Lê Xuân P, sinh năm 1988.

Cùng trú tại: Thôn Tân B, xã Sơn B, huyện C, tỉnh B.

3. Ông Trần Hùng N (B), sinh năm 1969.

4. Ông Lê Thiện Đ, sinh năm 1987.

Cùng trú tại: Thôn Sơn T, xã Sơn B, huyện C, tỉnh B.

- Người chứng kiến:

Ông Đinh Tiền G, sinh năm 1994.

HKTT: Thôn Sơn T, xã Sơn B, huyện C, tỉnh B.

(Ông L, ông P có mặt; ông N, ông Đ, ông G vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 15 phút ngày 23/9/2021, Trần Thế H, Diệp Mạnh H (R), Trần H; Nguyễn Quang T (sinh năm: 1989, trú tại ấp Sơn T, xã Sơn B, huyện C, tỉnh B), Dương Văn Tr (Đ) và Nguyễn Xuân T đến nhà Nguyễn Văn Q chơi. Tại đây, H, Tr, Th và T đánh bài cào tố 03 lá ăn tiền, những người còn lại ngồi xem. Đến khoảng 19h cùng ngày, H và Tr gom mỗi người 100.000 đồng đưa cho Q. Q đưa cho H1 200.000 đồng này đi mua ma túy về để sử dụng đồng thời Q hỏi mượn Th bộ dụng cụ sử dụng ma túy nên Th đi về nhà mình lấy cho Q mượn. Sau khi H1 đi mua ma túy về, H lấy ma túy đổ vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy rồi nấu lên cho H, Q, T1, Tr, H sử dụng hết. Riêng H1 và Th không sử dụng ma túy. Sau khi sử dụng ma túy xong, Q mang bộ dụng cụ sử dụng ma túy cất vào bên hông nhà còn H1, T1 và Th đi về.

Đến khoảng 20 giờ cùng ngày, Lê Văn T chở Tạ Ngọc Vân P đến nhà Q chơi. Tại đây, T đánh bài cào tố 03 lá ăn tiền cùng Tr, H, Nguyễn Bá L (N, sinh năm: 1992, trú tại ấp Tân B, xã Sơn B, huyện C, tỉnh B) còn Q, H và P ngồi xem. Tại đây, T lấy 01 bịch ma túy đá (bên trong chứa 09 bịch ma túy nhỏ) trong túi quần bên trái đang mặc trên người đưa qua cho P đang ngồi đối diện nói lấy ma túy ra để sử dụng. H đi lấy nước đổ vào chai nhựa còn Q đi lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy giấu bên hông nhà đưa cho P. P lấy ra 01 bịch ma túy nhỏ của T đưa nấu lên để sử dụng. P trả số ma túy còn lại cho T nói “đồ của mày thì mày giữ đi”. T cầm bịch ma túy trên để trước mặt mình rồi tiếp tục đánh bài. Đến khoảng 21h30’ cùng ngày, khi P và L sử dụng ma túy xong rồi chuyền cho H để sử dụng thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức phối hợp với Công an xã Sơn B bắt quả tang và thu giữ tang vật gồm: 01 bộ bài tây 52 lá; 1.370.000 đồng trên chiếu bạc; 02 điện thoại di động các loại (hiệu Redmi và Nokia 105); 02 xe mô tô các loại (hiệu Attila biển số 72G1-144.xx và Dream biển số 63X4-97xx); thu giữ 01 bịch nylon màu trắng, viền đỏ được dán kín, bên trong chứa 08 bịch nylon màu trắng được dán kín, bên trong chứa chất kết tinh không màu trong suốt được thu giữ trên chiếu bạc; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (gồm 01 chai nhựa màu trắng nhãn hiệu AQUATIA, 01 ống nhựa hút nước màu đỏ và 01 chiếc nỏ thủy tinh).

Riêng Tạ Ngọc Vân P và Dương Văn Tr bỏ chạy thoát. Đến ngày 24/9/2021, P và Tr đến Cơ quan Công an đầu thú và khai nhận hành vi của mình như vừa nêu trên.

Quá trình điều tra, Lê Văn T khai nhận vào khoảng 19h ngày 23/9/2022, do có nhu cầu sử dụng ma túy nên T nhờ D (không rõ họ tên, địa chỉ) hỏi mua ma túy giúp mình. Sau đó, D nói T đến khu vực cầu Sông Ray thuộc xã Hoà B, huyện Xuyên M, tỉnh B) để mua ma túy. T điều khiển xe mô tô biển số 72G-144.xx đến điểm hẹn nhận 01 bịch nylon màu trắng (bên trong có chứa 09 bịch ma túy nhỏ) bỏ vào túi quần bên trái đang mặc trên người rồi đến nhà Đ nhậu. T mang theo số ma túy trên rủ P đến nhà Q chơi. Sau đó, T tham gia đánh bài ăn tiền và đưa bịch ma túy cho P nấu lên để sử dụng như đã nêu trên.

Tạ Ngọc Vân P là người lấy bịch ma túy từ T đưa bỏ vào chiếc nỏ thủy tinh của Q đưa rồi nấu lên cho cả nhóm sử dụng chung. Tuy nhiên, Tạ Ngọc Vân P bị tai nạn giao thông tràn dịch não tắc. Hiện đang bảo quản xương sọ để ghép lại cho bệnh nhân ở Ngân hàng mô thuộc Trường đại học y khoa Phạm Ngọc Thạch- thành phố Hồ Chí Minh nên Cơ quan điều tra chưa làm việc được. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức đã Trưng cầu Trung tâm pháp y tâm thần khu vực thành phố Hồ Chí Minh giám định tâm thần đối với P nhưng chưa có kết quả. Do thời hạn điều tra vụ án đã hết nên ngày 10/01/2023, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tách vụ án hình sự số 01/QĐ. Ngày 13/01/2023, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự số 03/QĐ và Quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can số 01/QĐ đối với Tạ Ngọc Vân P.

Quá trình điều tra xác định số tiền đánh bạc tại thời điểm H đánh bạc cùng Tr, T và T là 1.160.000 đồng (gồm: Th 60.000 đồng; H 600.000 đồng; Tr 500.000 đồng); Số tiền đánh bạc tại thời điểm T đánh bạc cùng Tr, H và L là 1.370.000 đồng (gồm H 600.000 đồng, Tr 500.000 đồng, T 270.000 đồng). Tại thời điểm bắt quả tang, thu giữ được trên chiếu bạc số tiền là 1.370.000 đồng.

Tại bản kết luận giám định số 483/KLGĐ-PC09- MT ngày 01/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu kết luận: “Mẫu chất kết tinh không màu - trong suốt, chứa trong 08 (tám) gói ny lon hàn kín, được niêm phong trong một phong bì màu trắng, có hình dấu của Công an xã Sơn B-CAH Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, cùng các chữ ký ghi rõ họ tên: T1 tá Nguyễn Thanh S, Phan Văn H, Đinh Tiền G, Lê Văn T, Trần Thế H, Nguyễn Bá L, Diệp Mạnh H, Nguyễn Văn Q gửi đến giám định có tổng khối lượng 0,9329 gam, là ma túy, loại Methamphetamine”.

Cáo trạng số 21A/CT-VKS-CĐ ngày 14/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức truy tố:

Lê Văn T về các tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;

Trần Thế H, Trần H, Nguyễn Văn Q, Diệp Mạnh H, Nguyễn Xuân T và Dương Văn Tr về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố Nhà nước giữ nguyên quyết định truy tố đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 17, Điều 58, Điều 38 xử phạt: Lê Văn T mức án từ 07 năm đến 08 năm về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Lê Văn T mức án từ 15 đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 50, Điều 58, Điều 38 xử phạt bị cáo Trần H mức án từ 07 năm đến 08 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 50, Điều 58, Điều 38 xử phạt bị cáo Trần Thế H mức án từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 50, Điều 58, Điều 38 xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Q mức án từ 07 năm đến 08 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 50, Điều 58, Điều 38 xử phạt bị cáo Diệp Mạnh H mức án từ 07 năm đến 08 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 50, Điều 58, Điều 38 xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân T mức án từ 07 năm đến 08 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 17, Điều 50, Điều 58, Điều 38 xử phạt bị cáo Dương Văn Tr mức án từ 07 năm đến 08 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Ngoài ra đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy chất ma túy còn lại sau giám định, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy; tịch thu sung quỹ nhà nước đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia; trả lại xe 01 xe mô tô hiệu Attila màu đỏ đen, biển số 72G1-144.xx cho ông Lê Thiện Đ.

Các bị cáo Lê Văn T, Trần Thế H, Trần H, Nguyễn Văn Q, Diệp Mạnh H, Nguyễn Xuân T và Dương Văn Tr thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng. Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt vì hoàn cảnh hiện nay rất khó khăn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Châu Đức, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra trong tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo qui định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

[2] Bản Cáo trạng số 21A/CT-VKS-CĐ ngày 14/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức truy tố:

Lê Văn T về các tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự;

Truy tố Trần Thế H, Trần H, Nguyễn Văn Q, Diệp Mạnh H, Nguyễn Xuân T và Dương Văn Tr về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự là có căn cứ.

[3] Tại phiên toà, Lê Văn T, Trần Thế H, Trần H, Nguyễn Văn Q, Diệp Mạnh H, Nguyễn Xuân T và Dương Văn Tr thừa nhận:

Khoảng 17 giờ 15 phút ngày 23/9/2021, tại nhà của Nguyễn Văn Q (ở ấp Tân B, xã Sơn B, huyện C, tỉnh B), Dương Văn Tr và Trần Thế H gom mỗi người 100.000 đồng rồi đưa cho Q. Q cầm 200.000 đồng này đưa cho Trần H nhờ đi mua ma túy và nói Nguyễn Xuân T về nhà lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy cho Q mượn.

Sau khi Trần H đi mua ma túy về thì Q đưa ma túy và nỏ thủy tinh cho H nấu lên cho Q, H, H, T1, Tr cùng sử dụng (riêng H1 và Th không sử dụng ma túy). Sau đó, H1, Th, và T1 đi về nhà.

Đến khoảng 20 giờ ngày 23/9/2021, Lê Văn T, Tạ Ngọc Vân P, Nguyễn Bá L đến nhà Q chơi. Tại đây, T, L, H và Tr đánh bài ăn tiền còn Q, H và P ngồi xem. Sau đó, T lấy 01 bịch ma túy đá trong túi quần bên trái đang mặc trên người đưa qua cho P đang ngồi đối diện nói lấy ma túy ra để sử dụng. Q nói H đi lấy nước đổ vào chai nhựa còn Q đi lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy giấu bên hông nhà đưa cho P. P lấy ra 01 bịch ma túy nhỏ của T nấu lên sử dụng rồi chuyển cho H và L sử dụng. P trả số ma túy còn lại cho T thì T cầm bịch ma túy trên để trước mặt mình rồi tiếp tục đánh bài. Đến khoảng 21h30’ cùng ngày, cả nhóm bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức phối hợp với Công an xã Sơn B bắt quả tang và thu giữ được tang vật gồm: 01 bộ bài tây 52 lá; 1.370.000 đồng trên chiếu bạc; 02 điện thoại di động các loại (hiệu Redmi và Nokia 105); 02 xe mô tô các loại (hiệu Attila biển số 72G1-144.xx và Dream biển số 63X4-97xx); thu giữ 0,9329 gam ma túy, loại Methamphetamine. T khai tàng trữ số ma túy trên là để sử dụng dần.

[4] Lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người chứng kiến; 01 (một) gói niêm phong, bên trong có chứa mẫu vật còn lại sau giám định được đánh số 483 ngày 01/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thấy: Quan điểm luận tội của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức tại phiên tòa kết luận hành vi phạm tội của bị cáo, giữ nguyên cáo trạng số 21A/CT-VKS-CĐ ngày 14/6/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Đức truy tố: Lê Văn T về các tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; các bị cáo Trần Thế H, Trần H, Nguyễn Văn Q, Diệp Mạnh H, Nguyễn Xuân T và Dương Văn Tr về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b, khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự là có cơ sở nên chấp nhận.

Như vậy đã có đủ căn cứ kết luận: Lê Văn T phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự; các bị cáo Trần Thế H, Trần H, Nguyễn Văn Q, Diệp Mạnh H, Nguyễn Xuân T và Dương Văn Tr đồng phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự.

[5] Lê Văn T, Trần Thế H, Trần H, Nguyễn Văn Q, Diệp Mạnh H, Nguyễn Xuân T và Dương Văn Tr là công dân đã trưởng thành. Bản thân các bị cáo là người nghiện ma túy nên bị cáo biết rất rõ hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi: Chỉ vì sử dụng các chất ma túy mà nhiều người dấn thân vào con đường tội lỗi để thỏa mãn cơn nghiện. Nhiều gia đình ly tán, tan gia, bại sản cũng chỉ vì ma túy. Nguy hiểm hơn, vì sử dụng ma túy đã làm cho nhiều người thân bại danh liệt, bị lây nhiễm HIV và một số bệnh lây truyền nguy hiểm khác. Thậm chí có nhiều trường hợp do sử dụng ma túy quá liều bị sốc thuốc dẫn đến tử vong. Nhưng vì ý thức coi thường kỷ cương pháp luật và các chuẩn mực đạo đức xã hội nên các bị cáo đã tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng. Vì vậy cần phải có một bản án thật nghiêm khắc đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội, đồng thời mới đáp ứng được yêu cầu đấu tranh, giáo dục, phòng ngừa tội phạm nói chung và đối với tội phạm về ma túy nói riêng.

[6] Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 50 Bộ luật hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự khác để quyết định cho mỗi bị cáo một mức hình phạt phù hợp.

Trước khi thực hiện tội phạm, các bị cáo không có sự bàn bạc từ trước. Không có sự chỉ huy phục tùng, không có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm, mà các bị cáo phạm tội mang tính tự phát. Do đó không coi là trường hợp phạm tội có tổ chức mà chỉ là trường hợp đồng phạm giản đơn, trong đó các bị cáo tham gia với vai trò là người thực hành.

Tình tiết tăng nặng: Không. Tuy nhiên ngày 14/01/2009, Trần Thế H bị Tòa án nhân dân huyện Châu Đức xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 29/3/2012, bị Tòa án nhân dân huyện Châu Đức xử phạt 07 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 14/11/2012, bị Công an huyện Châu Đức ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Ngày 09/4/2008, Diệp Mạnh H bị Tòa án nhân dân huyện Châu Đức xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Như vậy H và H có nhân thân xấu.

Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, Lê Văn T, Nguyễn Văn Q, Diệp Mạnh H, Trần Thế H, Nguyễn Xuân T và Dương Văn Tr và Trần H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Các bị cáo Dương Văn Tr, Diệp Mạnh H có hoàn cảnh gia đình khó khăn. Như vậy cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho Lê Văn T, Nguyễn Văn Q, Trần Thế H, Nguyễn Xuân T và Trần H; áp dụng điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo Diệp Mạnh H và Dương Văn Tr.

Đối với hành vi đánh bạc của Lê Văn T, Nguyễn Xuân T, Dương Văn Tr, Nguyễn Bá L, Trần Thế H tại nhà của Nguyễn Văn Q nhưng số tiền đánh bạc dưới 5.000.000 đồng. Các đối tượng đều chưa có tiền án, tiền sự về tội “Đánh bạc”, “Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc” nên ngày 17/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính mỗi đối tượng với số tiền 1.500.000 đồng.

Đối với Nguyễn Quang T (sinh năm: 1989, trú tại ấp Sơn T, xã Sơn B, huyện C, tỉnh B), hiện đã bỏ trốn khỏi địa phương. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức tiếp tục xác minh và xử lý sau.

Đối với người tên D đã bán ma túy cho T; do thông tin về D không đầy đủ và rõ ràng nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức tiếp tục điều tra xử lý sau.

Đối với Tạ Ngọc Vân P bị tai nạn giao thông tràn dịch não tắc. Hiện đang bảo quản xương sọ để ghép lại cho bệnh nhân ở Ngân hàng mô thuộc Trường đại học y khoa Phạm Ngọc Thạch- Thành phố Hồ Chí Minh nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức chưa làm việc được. Bên cạnh đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức đã Trưng cầu Trung tâm pháp y tâm thần khu vực thành phố Hồ Chí Minh giám định tâm thần đối với P nhưng chưa có kết quả. Do thời hạn điều tra vụ án đã hết nên ngày 13/01/2023, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hình sự số 03/QĐ và Quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can số 01/QĐ đối với Tạ Ngọc Vân P. Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục điều tra và xử lý sau.

[7] Về hình phạt bổ sung: Hoàn cảnh các bị cáo đang khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[8] Xử lý vật chứng:

Đối với bộ bài tây 52 lá, Cơ quan điều tra đã thành lập Hội đồng xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bằng hình thức tiêu hủy (đã xử lý xong).

Đối với số tiền 1.370.000 đồng thu giữ trên chiếu bạc, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức có nghĩa vụ nộp vào kho bạc nhà nước theo quy định pháp luật.

Đối với 01 xe mô tô hiệu Dream biển số 63X4-97xx của ông Lê Xuân P (là anh vợ của Nguyễn Bá L). Ông P không biết L điều kH xe trên đi đánh bạc và sử dụng trái phép chất ma túy nên ngày 17/01/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức đã trả lại cho ông P (đã xử lý xong).

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Redmi của Tạ Ngọc Vân P, không liên quan đến vụ việc nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức đã trả lại cho P (đã xử lý xong).

01 (một) gói niêm phong, bên trong có chứa mẫu vật còn lại sau giám định được đánh số 483 ngày 01/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (gồm 01 chai nhựa màu trắng nhãn hiệu AQUATIA, 01 ống nhựa hút nước màu đỏ và 01 chiếc nỏ thủy tinh) là công cụ, phương tiện phạm tội thì áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu huỷ.

01 xe mô tô hiệu Attila màu đỏ đen, biển số 72G1-144.xx của ông Lê Thiện Đ. Ông Đ cho T mượn làm phương tiện đi lại; ông Đ không có lỗi thì áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, trả lại chiếc xe này cho ông Lê Thiện Đ.

01 điện thoại di động hiệu Nokia, số imei 357342087159591 (là tài sản của Lê Văn T) là công cụ, phương tiện phạm tội thì áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Đức đang quản lý các vật chứng trên.

[10] Án phí: Các bị cáo Lê Văn T, Nguyễn Văn Q, Trần H, Diệp Mạnh H, Trần Thế H, Nguyễn Xuân T và Dương Văn Tr mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Văn T phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” và tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Các bị cáo Trần Thế H, Trần H, Nguyễn Văn Q, Diệp Mạnh H, Nguyễn Xuân T và Dương Văn Tr đồng phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” 1.Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 50, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Lê Văn T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Lê Văn T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Áp dung Điều 55 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt của hai tội để buộc Lê Văn T phải chấp hành hình phạt chung là 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 14/02/2022.

2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 50, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Trần Thế H 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 30/4/2023.

3. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 50, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Trần H 07 (bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 19/4/2023.

4. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 50, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Văn Q 07 (bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt để thi hành án.

5. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 50, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Diệp Mạnh H 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 18/4/2023.

6. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 50, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Nguyễn Xuân T 07 (bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 19/4/2023.

7. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 50, Điều 58, Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt Dương Văn Tr 07 (bảy) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt 18/4/2023.

Tiếp tục tạm giam các bị cáo Lê Văn T, Trần Thế H, Trần H, Diệp Mạnh H, Nguyễn Xuân T và Dương Văn Tr để bảo đảm thi hành án.

Xử lý vật chứng:

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu tiêu hủy: 01 (một) gói niêm phong, bên trong chứa mẫu vật còn lại sau giám định được đánh số 483 ngày 01/10/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy (gồm 01 chai nhựa màu trắng nhãn hiệu AQUATIA, 01 ống nhựa hút nước màu đỏ và 01 chiếc nỏ thủy tinh).

Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự tịch thu sung quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Nokia số imei 357342087159591.

Áp dụng khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự trả lại 01 xe mô tô hiệu Attila màu đỏ đen, biển số 72G1-144.xx cho ông Lê Thiện Đ.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Đức với Chi cục thi hành án dân sự huyện Châu Đức ngày 07/02/2023).

Hiện Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Đức đang quản lý các vật chứng trên.

Án phí: Các bị cáo Lê Văn T, Nguyễn Văn Q, Trần H, Diệp Mạnh H, Trần Thế H, Nguyễn Xuân T và Dương Văn Tr mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

Hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày tuyên án (22/8/2023), các bị cáo T, H, H1, Q, H, Th, Tr, anh P và anh L có quyền kháng cáo. Đối với những người vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn này được tính từ ngày nhận được bản án do Tòa án tống đạt hoặc niêm yết có quyền yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

510
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 74/2023/HS-ST

Số hiệu:74/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Đức - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:22/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về