Bản án về tội tổ chức đánh bạc và đánh bạc số 04/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NAM ĐỊNH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 04/2021/HS-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC VÀ ĐÁNH BẠC

Ngày 20-01-2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 357/2020/TLST-HS ngày 02-12-2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 357/2020/QĐXXST-HS ngày 31-12- 2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Bùi Ngọc H, sinh ngày 18 tháng 9 năm 1970 tại: Thành phố N, tỉnh Nam Định; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 6/117 đường Đ, phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 6/117 đường Đ, phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Phú T1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị N (đã chết); có chồng Nguyễn Thanh H4 (đã chết) và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02-9-2020, chuyển tạm giam từ ngày 11-9-2020 cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lê Thị Thanh M, sinh ngày 09 tháng 02 năm 1985 tại: Thành phố N, tỉnh Nam Định; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 3/93 phố B, phường P, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 3/93 phố B, phường P, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Thành Tr1 và bà Vũ Thị Tr2; không có chồng, có 01 con; tiền án: Ngày 12-01-2016 bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc”, chưa thi hành án phí; tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02-9-2020, chuyển tạm giam từ ngày 11-9- 2020 cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

3. Họ và tên: Nguyễn Văn T, sinh ngày 25 tháng 5 năm 1994 tại: Thành phố N, tỉnh Nam Định; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 7/93 đường Đ, phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 6/117 đường Đ, phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh H5 (đã chết) và bà Bùi Ngọc H; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02-9-2020, chuyển tạm giam từ ngày 11-9- 2020 cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

4. Họ và tên: Nguyễn Thị H1, sinh năm 1953 tại: Thành phố N, tỉnh Nam Định; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 7/83 đường Đ, phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 7/83 đường Đ, phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N (đã chết) và bà Nguyễn Thị Th (đã chết); có chồng Nguyễn Khắc Đ (đã ly hôn) và 02 con; tiền án: Ngày 20-11-2003 bị Tòa án nhân dân tỉnh Nam Định xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Lưu hành tiền giả” và “Mua bán trái phép chất ma túy”; ngày 28-11-2006 bị Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội xử phạt 20 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ra trại ngày 30-4-2020; tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02-9-2020, chuyển tạm giam từ ngày 11-9- 2020 cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

5. Họ và tên: Trần Thị M1, sinh năm 1969 tại: Thành phố N, tỉnh Nam Định; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 26/36/153 đường L, phường X, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 26/36/153 đường L, phường X, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Xuân C (đã chết) và bà Phạm Thị D; có chồng Trần Công N và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02-9-2020, chuyển tạm giam từ ngày 11-9- 2020 cho đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

6. Họ và tên: Trần Thị Nguyệt A, sinh ngày 09 tháng 11 năm 1978 tại: Thành phố N, tỉnh Nam Định; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 5A/587 đường T, phường V, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 5A/587 đường T, phường V, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn A1 và bà Phạm Thị N1; có chồng Phạm Trọng H6 và 04 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 12-8-2014 bị Tòa án nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định xử phạt 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, ra trại ngày 31-8-2015; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú kể từ ngày 02-9-2020. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

7. Họ và tên: Nguyễn Thị H2, sinh ngày 23 tháng 12 năm 1973 tại: Huyện T, tỉnh Nam Định; đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 67 Đường Q, phường X, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Số 67 Đường Q, phường X, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ngọc C1 (đã chết) và bà Nguyễn Thị N2 (đã chết); có chồng Nguyễn Phi H7 (đã ly hôn) và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 29-3-1994 bị Tòa án nhân dân huyện Nam Ninh, tỉnh Nam Hà xử phạt 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cưỡng đoạt tài sản”; ngày 09-10-2017 bị Công an phường Ngô Quyền, thành phố Nam Định xử phạt hành chính hình thức phạt tiền 750.000 đồng về hành vi “Đánh nhau”; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02-9-2020, đến ngày 11-9-2020 được thay đổi thành biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

8. Họ và tên: Nguyễn Thị Thương H3, sinh ngày 13 tháng 9 năm 1984 tại: Huyện H, tỉnh Nam Định; đăng ký hộ khẩu thường trú: Ngõ số 6 phố Đ, phường Y, thành phố N, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Ngõ số 6 phố Đ, phường Y, thành phố N, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Xuân K (đã chết) và bà Vũ Thị T2; có chồng Nguyễn Văn T3 và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02-9-2020, đến ngày 11- 9-2020 được thay đổi thành biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do muốn có thu nhập bất chính nên Bùi Ngọc H nảy sinh ý định tổ chức đánh bạc tại nhà mình, địa chỉ: Số 6/117 đường Đ, phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định dưới hình thức chơi xóc đĩa trên mạng Internet cho những người chơi khác.

Khoảng tháng 8/2020, H gặp và biết một người phụ nữ tự giới thiệu là Nguyễn Thị Kim N, sinh năm 1987, nhưng chưa xác định được chính xác tên tuổi, địa chỉ cụ thể. H hỏi mua của N tài khoản chơi xóc đĩa trên mạng Internet. N đồng ý và cung cấp cho H một tài khoản chơi xóc đĩa trên mạng Internet, với tên đăng nhập là “am2500011” và mật khẩu là “123456” để đăng nhập vào trang Web “Edy688.com”. Từ tài khoản này, H chia thành các tài khoản con với tên đăng nhập lần lượt là “am25000111”, “am25000112”, “am25000113” để cung cấp cho người chơi sử dụng đăng nhập vào trang Web “Lvg788.com” tham gia đánh bạc bằng hình thức chơi xóc đĩa trên mạng Internet. H sử dụng tài khoản “am2500011” để quản lý các tài khoản con. Mỗi tài khoản con sẽ có một lượng tiền nhất định được tính bằng “đô” do N chuyển vào. N và H thỏa thuận thanh toán với nhau 01 “đô” bằng 14.000 đồng, còn H và khách tham gia đánh bạc thỏa thuận thanh toán với nhau 01 “đô” bằng 20.000 đồng. H sẽ được hưởng số tiền chênh lệnh là 6000 đồng/01 “đô” từ người chơi, cùng với 1,3% tổng số tiền khách cược từ N và 5% số tiền người tham gia đánh bạc thắng cược trong mỗi ván.

Để theo dõi người ra vào, tránh sự phát hiện của cơ quan chức năng, H cho lắp đặt Camera trước cửa nhà. Để tổ chức việc đánh bạc trên mạng Internet, H chuẩn bị 02 bộ máy tính để bàn có kết nối mạng Internet đặt tại tầng 1 nhà H và tầng 2 khu bếp nhà H. Trong quá trình tổ chức đánh bạc, H nhờ con trai là Nguyễn Văn T và thuê Lê Thị Thanh M hỗ trợ thực hiện các thao tác trên máy tính và thanh toán tiền cho khách đến chơi. H trả công cho M mỗi ngày từ 200.000 đồng đến 300.000 đồng, tùy thuộc vào lượng khách đến đánh bạc trong ngày.

Khoảng 13 giờ ngày 01-9-2020, Lê Thị Thanh M đi đến nhà H thì được H cung cấp cho 01 tài khoản đánh bạc với tên đăng nhập là “am25000111”, mật khẩu là “dcvdcv”, với số tiền trong tài khoản là 1.500 “đô” để M tổ chức đánh bạc cho khách chơi tại tầng 2 khu bếp nhà H, đồng thời H đưa cho M số tiền 10.000.000 đồng để thanh toán cho khách chơi. Sau khi có tên đăng nhập và mật khẩu của tài khoản, M đi lên tầng 2 khu bếp nhà H mở máy tính có kết nối mạng Internet rồi đăng nhập vào trang Web “Lvg788.com” để vào trong trang chơi xóc đĩa. Từ khoảng 13 giờ cùng ngày, các đối tượng gồm Nguyễn Thị H2, Trần Thị Nguyệt A, Nguyễn Thị Thương H3, Nguyễn Thị H1 đi đến tham gia đánh bạc tại tầng 2 khu bếp nhà H. Những người này ngồi tại vị trí đối diện với máy tính, còn M ngồi cạnh máy tính trực tiếp thực hiện các thao tác trên trang Web và lấy kết quả xóc đĩa để xác định người thắng, thua trong mỗi ván rồi thanh toán tiền với người chơi. Khi vào trang Web chơi xóc đĩa, màn hình máy tính sẽ hiển thị giao diện các bàn chơi A, B, C, D bất kỳ. Khi M chọn một trong các bàn chơi, trên màn hình sẽ hiện lên giao diện bên chẵn, bên lẻ để đặt cược cùng với một người phụ nữ mở bát, đĩa và 04 quân vị bên trong, mỗi quân vị có một mặt đen, một mặt trắng, tỉ lệ đặt cược đánh số 1, 5, 10, 50, 100... Mỗi ván người chơi sẽ đặt tiền vào cửa chẵn hoặc cửa lẻ ở trên chiếu, M sẽ đối trừ tiền đánh bạc đặt giữa cửa chẵn và cửa lẻ, rồi sau đó M nhập số tiền đánh bạc chênh lệch vào trong trang Web đánh bạc. Trường hợp kết quả xóc đĩa hiện ra 03 mặt đen, 01 mặt trắng hoặc 03 mặt trắng, 01 mặt đen thì là lẻ, còn kết quả xóc đĩa hiện ra 02 mặt đen, 02 mặt trắng hoặc 04 mặt trắng hoặc 04 mặt đen thì là chẵn. Nếu kết quả xóc đĩa khác với cửa mà người chơi đã chọn thì người chơi sẽ mất toàn bộ số tiền đã đặt, nếu kết quả xóc đĩa về giống với cửa mà người chơi đã chọn thì người chơi thắng được 95% số tiền đã đặt. Sau mỗi ván, M sẽ lấy tiền của người thua và tiền của H đưa trước đó để thanh toán cho người thắng. Những người đánh bạc chỉ dựa vào kết quả xóc đĩa trên trang Web do M trực tiếp thao tác để đánh bạc với nhau mà không đặt cược trực tiếp trên trang Web, không biết quy đổi tiền, nhập tiền vào trang Web, cũng không biết cụ thể về số tiền thắng, thua trong trang Web do M thực hiện như thế nào. Trong quá trình đánh bạc, do có nhiều người đến chơi nên M đã gọi điện cho Nguyễn Văn T sang hỗ trợ M căn chỉnh tiền thắng, thua và thanh toán tiền cho khách.

Khi các đối tượng đánh bạc đến khoảng 15 giờ 15 phút cùng ngày thì bị Tổ công tác của Đội Cảnh sát hình sự Công an thành phố Nam Định phát hiện bắt quả tang, thu trên chiếu bạc tổng số tiền 21.120.000 đồng; thu giữ tại chỗ của M và T đang sử dụng: 01 màn hình máy tính nhãn hiệu ASANZO, 01 cây máy tính nhãn hiệu Fujitsu, 01 chuột máy tính, 01 bàn phím máy tính nhãn hiệu Newmen và 01 bộ phát Wifi Tenda mà M đã sử dụng truy cập vào trang Web chơi xóc đĩa để đặt cược và lấy kết quả cho người chơi. Đồng thời, thu giữ của M 01 điện thoại Iphone 8 Plus màu hồng và thu giữ của T 01 điện thoại di dộng Iphone 6S màu vàng đã sử dụng liên lạc hỗ trợ cho việc tổ chức đánh bạc; thu giữ của H3 01 điện thoại di động Iphone 7Plus màu vàng sử dụng để liên lạc với H vay tiền đánh bạc.

Tại Cơ quan điều tra, các đối tượng khai nhận toàn bộ hành vi như đã nêu trên. Nguyễn Thị H2 khai khi đến đánh bạc đã mang theo số tiền khoảng 1.000.000 đồng, lúc bị bắt quả tang H2 bị thu giữ số tiền khoảng 1.200.000 đồng, lúc này H2 thắng khoảng 200.000 đồng. Trần Thị Nguyệt A khai khi đến đánh bạc đã mang theo số tiền khoảng 6.000.000 đồng, lúc bị bắt quả tang không rõ thắng hay thua. Nguyễn Thị Thương H3 khai khi đến đánh bạc đã mang theo số tiền khoảng 900.000 đồng, trong quá trình đánh bạc bị thua khoảng 600.000 đồng nên H3 nhắn tin hỏi vay tiền H. Sau đó M đã đưa cho H3 vay số tiền là 3.000.000 đồng. Lúc bị bắt quả tang H3 bị thu giữ số tiền khoảng 3.300.000 đồng, lúc này H3 đang thua khoảng 600.000 đồng. Nguyễn Thị H1 khai khi đến đánh bạc đã mang theo số tiền khoảng 3.220.000 đồng, lúc bị bắt quả tang bị thu giữ số tiền khoảng 2.820.000 đồng, lúc này H1 đang thua khoảng 400.000 đồng.

Cơ quan điều tra đã tiến hành triệu tập Bùi Ngọc H lên làm việc. Tại Cơ quan điều tra, H thừa nhận hành vi tổ chức đánh bạc như trên. Đồng thời, H còn khai nhận hành vi tổ chức đánh bạc cho Trần Thị M1 như sau:

Khoảng 12 giờ 30 phút ngày 01-9-2020, Trần Thị M1 đến nhà gặp H đặt vấn đề mua 01 tài khoản để M1 trực tiếp đánh bạc bằng hình thức chơi xóc đĩa trên mạng Internet. H đồng ý và cung cấp cho M1 01 tài khoản có tên đăng nhập là “am25000113”, mật khẩu “123456”, với hạn mức là 70 “đô”, 01 “đô” bằng 20.000 đồng, tương đương số tiền là 1.400.000 đồng để M1 đăng nhập vào trang Web “Lvg788.com” trên máy tính có kết nối mạng Internet tại tầng 1 nhà H. M1 trả cho H số tiền 1.400.000 đồng để nhận tài khoản trên. Sau khi M1 nghỉ không chơi nữa, M1 và H sẽ đối chiếu tiền trong tài khoản để thanh toán tiền thắng, thua với nhau. Do M1 không biết đăng nhập tài khoản nên H đăng nhập hộ M1 vào trang Web chơi xóc đĩa. Sau đó M1 trực tiếp tham gia đặt cược trong trang Web chơi xóc đĩa. Trong mỗi ván, nếu M1 thắng thì sẽ được cộng thêm số “đô” vào số “đô” mà M1 đang có trong tài khoản, ngược lại nếu M1 thua thì sẽ bị trừ vào trong số “đô” mà M1 đang có trong tài khoản. Khi M1 đánh bạc đến khoảng 15 giờ 15 phút cùng ngày thì thấy Đội Cảnh sát hình sự Công an thành phố Nam Định bắt quả tang hành vi đánh bạc bằng hình thức chơi xóc đĩa của H2, H3, Nguyệt A, H1 và hành vi tổ chức đánh bạc của T và M tại tầng 2 khu bếp nhà H. Do sợ bị phát hiện nên M1 nhờ H thoát khỏi tài khoản đánh bạc. Tính đến lúc này, tài khoản mà M1 sử dụng để đánh bạc còn số tiền 118,6 “đô”, số tiền M1 đã cược trong 253 lần chơi là 722 “đô”, tương đương số tiền 722 “đô” x 20.000 đồng = 14.440.000 đồng, tổng số tiền của các lần M1 thắng cược là 403 “đô”, tương ứng với số tiền là 403 “đô” x 20.000 đồng = 8.060.000 đồng. Số tiền thắng, thua từ việc đánh bạc là 48,6 “đô”, tương đương số tiền 48,6 “đô” x 20.000 đồng = 972.000 đồng và số tiền mua tài khoản ban đầu là 1.400.000 đồng thì M1 và H chưa thanh toán với nhau.

Như vậy, tổng số tiền đánh bạc của Trần Thị M1 trong ngày 01-9-2020 là 14.440.000 đồng + 8.060.000 đồng = 22.500.000 đồng.

Sau khi củng cố tài liệu chứng cứ, ngày 02-9-2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định đã ra lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp đối với Bùi Ngọc H và Trần Thị M1. Tại Cơ quan điều tra, Trần Thị M1 thừa nhận hành vi đánh bạc như trên.

Quá trình điều tra, Bùi Ngọc H tự nguyện giao nộp 01 cây máy tính nhãn hiệu Fujitsu màu trắng, 01 màn hình máy tính nhãn hiệu Samsung, 01 chuột máy tính, 01 bàn phím máy tính, 02 đoạn dây điện nối nguồn và 01 đoạn dây cáp nối đã sử dụng vào việc tổ chức đánh bạc cho Trần Thị M1 vào ngày 01-9- 2020 tại tầng 1 nhà H. Cơ quan điều tra còn thu giữ của H số tiền 1.400.000 đồng mà M1 đưa cho H trước đó để mua tài khoản đánh bạc; 01 điện thoại di động Samsung Galaxy J7 mà H sử dụng để quản lý trang xóc đĩa; 01 màn hình máy tính màu đen nhãn hiệu AOC, 01 đầu thu tín hiệu Camera, 01 mắt Camera phục vụ cho việc tổ chức đánh bạc.

Ngày 28-9-2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định ra quyết định trưng cầu giám định để khôi phục, trích xuất lịch sử truy cập trang Web “Lvg788.com’, lịch sử cuộc gọi, danh bạ điện thoại, các tin nhắn trong ứng dụng SMS, Zalo, Facebook trong 02 cây máy tính và 01 điện thoại di động Samsung đã thu giữ.

Tại Bản kết luận giám định số 1042/KL-PC09 ngày 06-10-2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Tìm thấy các lượt lịch sử truy cập trang Web “lvg788.com” tại 02 cây máy tính và lịch sử các cuộc gọi, tên danh bạ, số điện thoại trong 01 chiếc điện thoại di dộng Samsung gửi giám định. Tuy nhiên không tìm thấy lịch sử truy cập trang Web “Lvg788.com’, các tin nhắn trong ứng dụng SMS, Zalo, Facebook trong điện thoại di dộng Samsung có liên quan đến hành vi đánh bạc, tổ chức đánh bạc trong ngày 01-9- 2020 và thời gian trước đó.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Bùi Ngọc H, Lê Thị Thanh M, Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội tổ chức đánh bạc; các bị cáo Trần Thị M1, Nguyễn Thị H1, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị Thương H3, Trần Thị Nguyệt A đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đánh bạc như đã nêu trên.

Bản cáo trạng số 353/CT-VKS-TP.NĐ ngày 30-11-2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định truy tố các bị can Bùi Ngọc H, Lê Thị Thanh M, Nguyễn Văn T về tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm c khoản 2 Điều 322 Bộ luật Hình sự; truy tố bị can Nguyễn Thị H1 về tội “Đánh bạc” quy định điểm d khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự; truy tố bị can Trần Thị M1 về tội “Đánh bạc” quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự; truy tố các bị can Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị Thương H3, Trần Thị Nguyệt A về tội “Đánh bạc” quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa thể hiện hành vi của các bị cáo Bùi Ngọc H, Lê Thị Thanh M, Nguyễn Văn T có đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc”; hành vi của các bị cáo Nguyễn Thị H1, Trần Thị M1, Trần Thị Nguyệt A, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị Thương H3 có đủ yếu tố cấu thành tội “Đánh bạc”. Do đó Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định vẫn giữ nguyên quan điểm theo toàn bộ nội dung bản cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 2 và khoản 3 Điều 322, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Bùi Ngọc H từ 06 năm 06 tháng tù đến 07 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”.

Áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Bùi Ngọc H từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 322, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 54, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Lê Thị Thanh M từ 04 năm 06 tháng tù đến 05 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”.

Miễn phạt tiền đối với bị cáo Lê Thị Thanh M.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 322, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 04 năm 06 tháng tù đến 05 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”.

Miễn phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Văn T.

- Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Nguyễn Thị H1 từ 04 năm tù đến 04 năm 06 tháng tù về tội “Đánh bạc”.

Miễn phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Thị H1.

- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 321, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Trần Thị M1 từ 03 năm 06 tháng tù đến 04 năm tù về tội “Đánh bạc”.

Miễn phạt tiền đối với bị cáo Trần Thị M1.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 65 Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Trần Thị Nguyệt A từ 12 tháng tù đến 18 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi về tội “Đánh bạc”.

Miễn phạt tiền đối với bị cáo Trần Thị Nguyệt A.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 65 Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Nguyễn Thị H2 từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi về tội “Đánh bạc”.

Miễn phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Thị H2.

- Áp dụng khoản 1 Điều 321, điểm i,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 58, Điều 65 Bộ luật Hình sự: Phạt bị cáo Nguyễn Thị Thương H3 từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách gấp đôi về tội “Đánh bạc”.

Miễn phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Thị Thương H3.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước toàn bộ tiền và đồ vật, tài sản đã thu giữ.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Các bị cáo đều trình bày hoàn cảnh khó khăn, bản thân rất ân hận về hành vi phạm tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Bùi Ngọc H, Lê Thị Thanh M, Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị H1, Trần Thị M1, Trần Thị Nguyệt A, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị Thương H3 không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về tội danh:

Lời khai nhận tội của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay phù hợp với các chứng cứ khác như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 01-9-2020; các biên bản thu giữ tài liệu, vật chứng; các biên bản trích xuất thu giữ dữ liệu máy tính, dữ liệu điện thoại cùng các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Bị cáo Bùi Ngọc H đã có hành vi chuẩn bị từ trước cho việc tổ chức đánh bạc, bao gồm mua tài khoản đánh bạc trên các trang Web đánh bạc, mua các hệ thống máy tính, lắp đặt đường truyền Internet phục vụ việc đánh bạc trên mạng, lắp đặt hệ thống Camera bảo vệ. Trong khoảng thời gian từ 13 giờ đến 15 giờ 10 phút ngày 01-9-2020 tại nhà riêng của mình ở địa chỉ: Số 6/117 đường Đ, phường C, thành phố N, tỉnh Nam Định, bị cáo Bùi Ngọc H đã cung cấp tài khoản đánh bạc bằng hình thức chơi xóc đĩa, cung cấp tiền để cho các bị cáo Lê Thị Thanh M và Nguyễn Văn T thực hiện các thao tác trên máy tính, lấy kết quả chơi xóc đĩa trên trang Web đánh bạc để xác định thắng thua và thanh toán tiền cho các bị cáo Nguyễn Thị H1, Trần Thị Nguyệt A, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị Thương H3 tham gia đánh bạc bằng hình thức xóc đĩa, với tổng số tiền bị thu giữ trên chiếu bạc là 21.120.000 đồng thì bị bắt quả tang. Ngoài ra bị cáo Bùi Ngọc H còn trực tiếp cung cấp 01 tài khoản đánh bạc trên mạng Internet để cho bị cáo Trần Thị M1 sử dụng máy tính có kết nối mạng Internet đánh bạc tại nhà H trong khoảng từ 12 giờ 30 phút đến 15 giờ 15 phút, với tổng số tiền đánh bạc được xác định là 22.500.000 đồng.

Các bị cáo Bùi Ngọc H, Lê Thị Thanh M, Nguyễn Văn T đều là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rất rõ hành vi chuẩn bị công cụ, phương tiện, địa điểm để lôi kéo, tạo điều kiện cho người khác chơi xóc đĩa được thua bằng tiền và sử dụng tài khoản và máy tính có kết nối mạng Internet để lấy kết quả trên trang Web đánh bạc trực tuyến để quyết định thắng thua cho việc đánh bạc của các bị cáo khác mà các bị cáo đã thực hiện là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến trật tự trị an xã hội, xâm phạm trật tự quản lý hành chính nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy hành vi của các bị cáo Bùi Ngọc H, Lê Thị Thanh M, Nguyễn Văn T đã phạm tội “Tổ chức đánh bạc”, với tình tiết định khung “Sử dụng mạng Internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 322 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Nguyễn Thị H1 là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rất rõ hành vi chơi xóc đĩa được thua bằng tiền mà bị cáo tham gia là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến trật tự trị an xã hội, xâm phạm trật tự quản lý hành chính nhưng vẫn cố ý thực hiện, số tiền đánh bạc mà bị cáo cùng các đồng phạm phải chịu trách nhiệm là 21.120.000 đồng. Mặt khác, bị cáo Nguyễn Thị H1 đã 2 lần bị đưa ra xét xử, đã bị xác định tái phạm và chưa được xóa án tích nay lại phạm tội mới do cố ý. Vì vậy hành vi của bị cáo Nguyễn Thị H1 đã phạm tội “Đánh bạc”, với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Trần Thị M1 là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rất rõ hành vi sử dụng tài khoản và máy tính có kết nối mạng Internet để chơi xóc đĩa được thua bằng tiền trên trang Web đánh bạc trực tuyến là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến trật tự trị an xã hội, xâm phạm trật tự quản lý hành chính nhưng vẫn cố ý thực hiện, số tiền đánh bạc mà bị cáo phải chịu trách nhiệm là 22.500.000 đồng. Vì vậy hành vi của bị cáo Trần Thị M1 đã phạm tội “Đánh bạc”, với tình tiết định khung “Sử dụng mạng Internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

Các bị cáo Trần Thị Nguyệt A, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị Thương H3 đều là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rất rõ hành vi chơi xóc đĩa được thua bằng tiền và sử dụng kết quả do bị cáo Lê Thị Thanh M lấy trên trang Web đánh bạc trực tuyến để quyết định thắng thua mà các bị cáo thực hiện là vi phạm pháp luật, xâm phạm đến trật tự trị an xã hội, xâm phạm trật tự quản lý hành chính nhưng vẫn cố ý thực hiện, số tiền đánh bạc mà các bị cáo cùng phải chịu trách nhiệm là 21.120.000 đồng. Vì vậy các bị cáo Trần Thị Nguyệt A, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị Thương H3 đã phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự.

[3] Về vai trò của các bị cáo trong vụ án:

Bị cáo Bùi Ngọc H là người tìm mua tài khoản chính để quản lý việc đánh bạc trên mạng Internet, sử dụng nhà riêng của mình làm địa điểm đánh bạc, chuẩn bị máy tính, đường truyền Internet, thuê người hỗ trợ việc tổ chức đánh bạc nên giữ vai trò cầm đầu trong vụ án.

Bị cáo Nguyễn Văn T giúp mẹ đẻ là Bùi Ngọc H và bị cáo Lê Thị Thanh M là người làm thuê cho Bùi Ngọc H trong việc sử dụng máy tính có kết nối mạng Internet để tổ chức đánh bạc nên là đồng phạm có vai trò không lớn trong tội tổ chức đánh bạc.

Các bị cáo Nguyễn Thị H1, Trần Thị Nguyệt A, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị Thương H3 tham gia đánh bạc với nhau nên là đồng phạm, có vai trò ngang nhau trong tội đánh bạc.

Bị cáo Trần Thị M1 sử dụng tài khoản riêng và máy tính có kết nối mạng Internet để đánh bạc độc lập nên không phải là đồng phạm với các bị cáo khác trong vụ án.

[4] Về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự:

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì các bị cáo Bùi Ngọc H, Lê Thị Thanh M, Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị H1, Trần Thị M1, Trần Thị Nguyệt A, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị Thương H3 đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình nên đều sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo Nguyễn Thị Thương H3 phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Ngoài ra, bị cáo Lê Thị Thanh M có hoàn cảnh khó khăn và là người tàn tật, bị cụt chân phải; bị cáo Nguyễn Văn T đã có thời gian thực hiện nghĩa vụ quân sự; bị cáo Trần Thị Nguyệt A đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi và gia đình bị cáo có công với cách mạng nên sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Lê Thị Thanh M đã bị kết án về tội “Đánh bạc” vào năm 2016, chưa được xóa án tích nay lại phạm tội mới do cố ý nên sẽ bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Các bị cáo Bùi Ngọc H, Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị H1, Trần Thị M1, Trần Thị Nguyệt A, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị Thương H3 không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[5] Về hình phạt:

Xét thấy hành vi tổ chức đánh bạc của các bị cáo Bùi Ngọc H, Lê Thị Thanh M, Nguyễn Văn T và hành vi đánh bạc của các bị cáo Nguyễn Thị H1, Trần Thị M1, Trần Thị Nguyệt A, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị Thương H3 là nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, vì vậy cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn, với mức hình phạt tương xứng đối với hành vi phạm tội của các bị cáo. Hình phạt cụ thể như sau:

Bị cáo Bùi Ngọc H là người giữ vai trò cầm đầu nên cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc trong khung hình phạt được áp dụng.

Các bị cáo Nguyễn Văn T và Lê Thị Thanh M được áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ, đồng thời là người giúp sức không đáng kể trong vụ án nên Hội đồng xét xử sẽ áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo quy định tại khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với các bị cáo.

Bị cáo Nguyễn Thị H1 là người có nhân thân xấu, bị cáo Trần Thị M1 tham gia đánh bạc tích cực nên đều sẽ bị áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc trong khung hình phạt được áp dụng.

Xét thấy các bị cáo Trần Thị Nguyệt A, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị Thương H3 đều không có tiền án, tiền sự, được áp dụng nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng, có khả năng tự cải tạo tại địa phương nên Hội đồng xét xử sẽ miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện đối với các bị cáo và giao các bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách theo quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Trong thời gian thử thách, nếu các bị cáo Trần Thị Nguyệt A, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị Thương H3 cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc các bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

[6] Về hình phạt bổ sung:

Bị cáo Bùi Ngọc H là chủ mưu trong việc tổ chức đánh bạc nên Hội đồng xét xử sẽ áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Các bị cáo Lê Thị Thanh M, Nguyễn Văn T là đồng phạm có vai trò giúp sức trong tội tổ chức đánh bạc, gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên Hội đồng xét xử sẽ không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Các bị cáo Nguyễn Thị H1, Trần Thị M1, Trần Thị Nguyệt A, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị Thương H3 phạm tội đánh bạc nhưng gia đình đều có hoàn cảnh khó khăn nên Hội đồng xét xử sẽ không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với số tiền 22.520.000 đồng đã thu giữ là số tiền sử dụng vào việc đánh bạc nên sẽ tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

Đối với các đồ vật, tài sản là cây máy tính, màn hình máy tính, bàn phím và chuột máy tính, Camera và đầu thu... đều là công cụ phục vụ cho việc tổ chức đánh bạc nên sẽ tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7 thu giữ của Bùi Ngọc H, 01 chiếc điện thoại Iphone 8 Plus thu giữ của bị cáo Lê Thị Thanh M, 01 chiếc điện thoại Iphone 6S thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn T, 01 chiếc điện thoại Iphone 7 Plus thu giữ của bị cáo Nguyễn Thị Thương H3 đều là phương tiện để liên hệ trong việc tổ chức đánh bạc, liên hệ để vay tiền đánh bạc nên sẽ tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

[8] Về án phí:

Tất cả các bị cáo đều bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Bùi Ngọc H, Lê Thị Thanh M, Nguyễn Văn T phạm tội “Tổ chức đánh bạc” với tình tiết định khung “Sử dụng mạng Internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội”.

- Căn cứ điểm c khoản 2 và khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Ngọc H 06 năm 06 tháng tù (sáu năm sáu tháng tù). Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 02-9-2020.

Phạt tiền bị cáo Bùi Ngọc H 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng).

- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 322; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; khoản 2 Điều 54; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Lê Thị Thanh M 04 năm 06 tháng tù (bốn năm sáu tháng tù). Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 02-9-2020.

- Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 322; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; khoản 2 Điều 54; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 04 năm 06 tháng tù (bốn năm sáu tháng tù). Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 02-9-2020.

2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H1 phạm tội “Đánh bạc” với tình tiết định khung “Tái phạm nguy hiểm”.

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H1 04 năm tù (bốn năm tù). Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 02-9-2020.

3. Tuyên bố bị cáo Trần Thị M1 phạm tội “Đánh bạc” với tình tiết định khung “Sử dụng mạng Internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội”.

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Thị M1 03 năm 06 tháng tù (ba năm sáu tháng tù).

Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 02-9-2020.

4. Tuyên bố các bị cáo Trần Thị Nguyệt A, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị Thương H3 phạm tội “Đánh bạc”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Thị Nguyệt A 01 năm tù (một năm tù) nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm (hai năm) tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 20-01-2021.

Giao bị cáo Trần Thị Nguyệt A cho Ủy ban nhân dân phường Vị Hoàng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Trần Thị Nguyệt A cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Trần Thị Nguyệt A phải chấp hành hình phạt 01 năm tù (một năm tù) đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H2 01 năm tù (một năm tù) nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 02 năm (hai năm) tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 20- 01-2021.

Bị cáo Nguyễn Thị H2 có thời gian tạm giữ từ ngày 02-9-2020 đến ngày 11-9-2020.

Giao bị cáo Nguyễn Thị H2 cho Ủy ban nhân dân phường Cửa Nam, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Nguyễn Thị H2 cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Nguyễn Thị H2 phải chấp hành hình phạt 01 năm tù (một năm tù) đã cho hưởng án treo.

- Căn cứ khoản 1 Điều 321; điểm i,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58; Điều 65 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Thương H3 09 tháng tù (chín tháng tù) nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 năm 06 tháng (một năm sáu tháng) tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 20-01-2021.

Bị cáo Nguyễn Thị Thương H3 có thời gian tạm giữ từ ngày 02-9-2020 đến ngày 11-9-2020.

Giao bị cáo Nguyễn Thị Thương H3 cho Ủy ban nhân dân phường Nguyễn Du, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án Hình sự.

Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo Nguyễn Thị Thương H3 cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo Nguyễn Thị Thương H3 phải chấp hành hình phạt 09 tháng tù (chín tháng tù) đã cho hưởng án treo.

5. Xử lý vật chứng:

- Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự;

- Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước số tiền 22.520.000 đồng (hai mươi hai triệu năm trăm hai mươi nghìn đồng) đã được chuyển vào tài khoản của Chi cục Thi hành án thành phố Nam Định, ủy nhiệm chi số 27 ngày 03-12- 2020.

Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 mắt Camera đã cũ, 01 đầu thu đã cũ, 01 màn hình máy tính màu đen đã cũ, 01 màn hình máy tính màu xanh trắng đã cũ, 01 màn hình máy tính màu đen viền trắng đã cũ, 02 chân kê màn hình đã cũ, 02 bàn phím máy tính đã cũ, 01 chuột dây máy tính màu đen đã cũ, 01 chuột dây máy tính màu vàng đen đã cũ, 01 cây máy tính hiệu Fujitsu vỏ đen đỏ trắng đã cũ (ký hiệu A1), 01 cây máy tính hiệu Fujitsu vỏ đen đỏ trắng đã cũ (ký hiệu A2), 02 dây nguồn máy tính, 01 dây cáp cắm nối giữa màn hình và cây máy tính, 01 cục phát Wifi đã cũ, 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy J7, 01 chiếc điện thoại Iphone 8 Plus màu vàng hồng, 01 chiếc điện thoại Iphone 6S màu vàng, 01 chiếc điện thoại Iphone 7 Plus màu vàng.

(Tất cả vật chứng đã được niêm phong và bàn giao theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 08-12-2020).

6. Án phí:

- Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Căn cứ Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Bị cáo Bùi Ngọc H phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Lê Thị Thanh M phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Thị H1 phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Trần Thị M1 phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Trần Thị Nguyệt A phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Thị H2 phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Nguyễn Thị Thương H3 phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

7. Quyền kháng cáo:

Các bị cáo Bùi Ngọc H, Lê Thị Thanh M, Nguyễn Văn T, Nguyễn Thị H1, Trần Thị M1, Trần Thị Nguyệt A, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị Thương H3 được quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì các bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

275
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức đánh bạc và đánh bạc số 04/2021/HS-ST

Số hiệu:04/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về