TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NGÃI
BẢN ÁN 83/2022/HS-PT NGÀY 24/08/2022 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Trong ngày 24 tháng 8 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 94/2022/TLPT-HS ngày 02 tháng 8 năm 2022 do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 35/2022/HS-ST ngày 02/06/2022 của Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
- Bị cáo có kháng cáo:
Họ và tên: Nguyễn Phú H, sinh ngày 27/8/1988 tại tỉnh Quảng Ngãi; nơi cư trú: Thôn T, xã BK, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Buôn bán, sửa chữa điện thoại di động; trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Phú H1 và bà Nguyễn Thị P; có vợ: Lê Thị Thu K; con: có 01 con, sinh năm 2021; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 29/01/2022 đến ngày 17/02/2022 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cho gia đình bảo lĩnh, bị cáo tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Phú H: Bà Lê Thị N – Luật sư Công ty Luật TNHH MTV Nguyệt Nhật Minh thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Quảng Ngãi; địa chỉ: 05 VT, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Nguyễn Hồng T (Sau đây gọi tắt là: bị cáo T) và bị cáo Nguyễn Phú H (Sau đây gọi tắt: bị cáo H) không quen biết nhau.
Bị cáo T cần tiền tiêu xài nhưng không có việc làm nên vào khoảng 01 giờ 30 phút ngày 29/11/2021, bị cáo T điều khiển xe máy hiệu Wave Alpha biển kiểm soát 76C1-72385 đến địa bàn xã BĐ, huyện B tìm nơi có tài sản để trộm cắp. Bị cáo T phát hiện khu Villa thuộc Công ty TNHH MTV C tại thôn TH, xã BĐ, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi dễ đột nhập trộm cắp nên tắt đèn xe và điều khiển xe máy tiến đến gần tường rào rồi cất giấu xe mô tô, leo trèo vào trong. Bị cáo T lẻn vào các phòng ở khu Villa để tìm phòng sơ hở, đột nhập. Bị cáo T phát hiện các phòng 202, 204, 205, 206 không khóa cửa nên lén lút mở cửa chính đi vào bên trong các phòng trộm cắp tài sản của các bị hại gồm: Trần Huy H2, Vũ Văn A, Lê Chiến T1, Hoàng Văn K1, Bùi Văn V, Phạm Thế Đ, Trần Văn H3, Trần C, Nguyễn Minh T (Đều là thuyền viên của tàu CS đang neo đậu sửa chữa tại Cảng của Công ty TNHH MTV C). Qua trình báo của các bị hại đang có mặt khi khám xét hiện trường thì xác định tài sản bị cáo T trộm cắp, gồm có: 01 điện thoại Samsung Galaxy Note 10; 01 điện thoại Xiaomi Redmi Note 10 Pro; 02 điện thoại Iphone 7 Plus; 01 điện thoại OPPO A5; 01 điện thoại Black View; 01 điện thoại Samsung J7; 01 điện thoại Samsung Note 10 Lite; 01 máy tính bảng Ipad A76; 01 máy tính xách tay Lenovo và tiền mặt 2.000.000 (Hai triệu đồng).
Sau khi chiếm đoạt tài sản, bị cáo T bỏ tài sản trộm cắp được vào trong túi máy tính xách tay mang ra ngoài theo hướng đã đột nhập mang về nhà cất giấu.
Sáng cùng ngày, các các thuyền viên tàu CS phát hiện mất trộm tài sản nên trình báo sự việc cho Công an. Tuy nhiên, trong quá trình kiểm tra tài sản, Trần Huy H2 không thấy 01 điện thoại Samsung Galaxy A72 nên ngoài những tài sản do bị cáo T trộm cắp thì còn phát sinh thêm tài sản là 01 điện thoại Samsung Galaxy A72. Đến ngày 24/12/2021, Trần Huy H2 dọn phòng, phát hiện 01 điện thoại Samsung Galaxy A72 vẫn còn nên đã có đơn xin trình báo về việc tìm thấy tài sản gửi đến Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Bình Sơn.
Khoảng 10 giờ ngày 29/11/2021, bị cáo T mang 02 điện thoại di động gồm:
01 điện thoại Redmi Note 10 Pro và 01 điện thoại Samsung Galaxy Note 10 đến tiệm mua bán, sửa chữa điện thoại di động PH gặp bị cáo H. Tại đây, bị cáo T thuê bị cáo H chạy lại hệ điều hành để mở khóa màn hình điện thoại, bị cáo H đồng ý rồi nhận máy để kiểm tra, dù phát hiện máy bị khóa màn hình, trên màn hình cài hình nền của người đàn ông không phải là T nhưng bị cáo H vẫn sử dụng phần mềm để chạy lại hệ điều hành máy. Sau khoảng 01 giờ, bị cáo H hoàn thành việc bẻ khóa màn hình cảm ứng, khi đưa điện thoại lại cho bị cáo T thì bị cáo T hỏi bán điện thoại cho bị cáo H. Là người có kinh nghiệm trong việc sửa chữa, mua bán điện thoại đã qua sử dụng nên bị cáo H chỉ mua 01 điện thoại Redmi Note 10 Pro với giá 3.500.000 đồng, vì máy dễ bán lại và lợi nhuận cao. Bị cáo T đồng ý bán, do bị cáo T đã bán lại điện thoại cho bị cáo H với giá mà bị cáo H mong muốn nên bị cáo H không lấy tiền công bẻ khóa màn hình, bị cáo T nhận tiền và mang điện thoại Samsung Galaxy Note 10 bỏ đi.
Sau đó, bị cáo T mang điện thoại Samsung Galaxy Note 10 đến tiệm điện thoại VH, ở tổ dân phố 1, thị trấn C, huyện B gặp Lê Vũ H4 là chủ tiệm. Tại đây, bị cáo T hỏi bán điện thoại, sau khi đưa điện thoại cho Lê Vũ H4 xem, thấy điện thoại không bị khóa, máy hoạt động bình thường nên Lê Vũ H4 đồng ý mua điện thoại với giá 4.800.000 đồng, bị cáo T đồng ý bán và nhận tiền.
Đến khoảng 15 giờ cùng ngày, bị cáo T tiếp tục mang 02 điện thoại gồm:
01 điện thoại Iphone 7 và 01 điện thoại Iphone 7 Plus đến tiệm mua bán, sửa chữa điện thoại PH gặp bị cáo H để thuê chạy lại hệ điều hành, bẻ khóa màn hình của máy. Bị cáo H kiểm tra máy, phát hiện máy bị khóa màn hình và có hình nền khác không phải bị cáo T nhưng vẫn nhận máy để bẻ khóa màn hình. Mặc dù bị cáo H đã dùng nhiều phần mềm để tác động vào phần mềm máy nhưng do bảo mật của dòng điện thoại tốt nên bị cáo H không thể bẻ khóa màn hình. Đến khoảng 10 giờ ngày 30/11/2021, bị cáo T quay lại tiệm điện thoại PH để nhận máy nhưng bị cáo H nói không bẻ khóa được thì bị cáo T nói với bị cáo H muốn bán lại 02 điện thoại nêu trên cho bị cáo H nhưng bị cáo H không mua vì điện thoại bị khóa màn hình sẽ khó bán lại cho khách. Bị cáo T cất 02 điện thoại nêu trên rồi tiếp tục lấy ra 03 điện thoại gồm: 01 điện thoại OPPO A5, 01 điện thoại Samsung Note 10 Lite và 01 điện thoại Samsung Galaxy A7 để thuê bị cáo H tiếp tục bẻ khóa màn hình. Bị cáo H dùng phần mềm bẻ khóa thành công 03 máy điện thoại trên trong khoảng 02 giờ đồng hồ. Trong cùng ngày, bị cáo T đến nhận máy và tiếp tục nói bán lại 03 điện thoại trên cho bị cáo H. Bị cáo H chỉ đồng ý mua 01 điện thoại OPPO A5 với giá 2.000.000 đồng và 01 điện thoại Samsung Galaxy A7 với giá 1.700.000 đồng, riêng điện thoại Samsung Note 10 Lite, bị cáo H không mua vì không thỏa thuận được giá với bị cáo T. Nhận tiền xong, bị cáo T cầm 03 điện thoại không bán được cho bị cáo H rồi bỏ đi, bị cáo H mua được máy điện thoại nên không lấy tiền công bẻ khóa màn hình của bị cáo T.
Sau khi về nhà, bị cáo T lấy các tài sản trộm cắp còn lại gồm: 01 điện thoại Samsung Note 10 Lite; 01 điện thoại Vsmart Joy3; 01 điện thoại Iphone 7; 01 điện thoại Iphone 7 Plus; 01 Ipad Gen 6 bỏ vào túi máy tính xách tay rồi điều khiển xe máy vào thành phố Quảng Ngãi để tiêu thụ. Bị cáo đến khu vực phía nam cầu Trà Khúc – thành phố Quảng Ngãi thì thấy có 01 người đàn ông không rõ nhân thân lai lịch mua thiết bị điện tử dạo nên gọi lại và bán 01 điện thoại Vsmart Joy3, 01 điện thoại Iphone 7 Plus, 01 điện thoại Samsung Note 10 Lite cho người này với giá 4.500.000 đồng.
Tiếp đó, T tiếp tục đem 01 điện thoại Iphone 7 và 01 Ipad Gen 6 đến tiệm điện thoại “R”, tại số 296 đường Q, thành phố QN gặp chị Trần Hồng H5, sinh năm 1997, ở thị trấn L, huyện T (Là chủ tiệm điện thoại) gửi điện thoại để bẻ khóa và sửa chữa.
Đến ngày 01/12/2021, bị cáo T cùng vợ là Bùi Thị Tố N1 đi lên nhà cha, mẹ vợ để sinh sống, lẫn trốn cơ quan pháp luật. Khi đi, bị cáo T mang theo 01 điện thoại Black View, 01 máy tính xách tay hiệu Lenovo, 01 cục sạc máy tính, 01 chuột máy tính. Đến ngày 10/12/2021, bị cáo T bị Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện Bình Sơn triệu tập làm việc khi đang lẩn trốn tại xã ĐL, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo T đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành khám xét nơi ở của bị cáo T tại xã ĐL, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng thu giữ tang vật trong vụ trộm cắp là 01 máy tính xách tay hiệu Lenovo, 01 chuột máy tính hiệu Dell; 01 cục sạc máy tính xách tay hiệu Lenovo; 01 điện thoại Black View; 01 điện thoại Samsung Galaxy Note 5.
Cơ quan Cảnh sát điều tra tiếp tục cho Nguyễn Hồng T xác định địa điểm tiêu thụ tài sản, kết quả bị cáo T xác định được địa điểm tiêu thụ tài sản là tiệm điện thoại di động PH và tiệm điện thoại VH tại thị trấn C. Tuy nhiên, tại thời điểm trên các điện thoại đã được chủ tiệm điện thoại bán cho khách mua hàng nên không thu hồi được. Tại tiệm điện thoại di động “Râu store” thu hồi được tang vật là 01 máy tính bảng Ipad Gen 6 và 01 điện thoại Iphone 7.
Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra xác định được tài sản do bị cáo T chiếm đoạt và yêu cầu định giá tài sản. Tại bản kết luận ngày 15/12/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Sơn kết luận giá trị tổng tài sản do bị cáo T chiếm đoạt gồm 10 điện thoại di động, 01 máy tính bảng Ipad, 01 máy tính xách tay là 51.600.000 đồng (Năm mươi mốt triệu sáu trăm nghìn đồng). Cụ thể:
1. 01 điện thoại Samsung Galaxy Note 10, trị giá 8.000.000 đồng;
2. 01 điện thoại Xiaomi Redmi 10 Note Pro, trị giá 3.500.000 đồng;
3. 01 điện thoại Samsung A72, trị giá 5.000.000 đồng;
4. 01 máy tính bảng Ipad Gen 6, trị giá 6.000.000 đồng;
5. 01 điện thoại Iphone 7 Plus, trị giá 4.800.000 đồng;
6. 01 điện thoại Vsmart Joy3, trị giá 3.000.000 đồng;
7. 01 điện thoại OPPO A5, trị giá 1.500.000 đồng;
8. 01 điện thoại Black View, trị giá 1.800.000 đồng;
9. 01 điện thoại Iphone 7, trị giá 3.500.000 đồng;
10. 01 điện thoại Samsung A7 (2018), trị giá 2.500.000 đồng;
11. 01 máy tính xách tay Lenovo màu đen, trị giá 5.500.000 đồng;
12. 01 điện thoại Samsung Note 10 Lite; trị giá 6.500.000 đồng.
Tuy nhiên, ngày 24/12/2021 anh Trần Huy H2 có đơn trình báo không bị mất trộm điện thoại Samsung Galaxy A72 trị giá 5.000.000 đồng vì đã tìm kiếm được khi dọn dẹp phòng ở nên tổng giá trị tài sản bị cáo T chiếm đoạt được xác định lại là 46.600.000 đồng (Bốn mươi sáu triệu sáu trăm nghìn đồng).
Tại bản kết luận ngày 28/2/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bình Sơn tiếp tục định giá bổ sung tài sản do bị cáo T chiếm đoạt và kết luận như sau: 01 chuột máy tính hiệu Dell, trị giá 90.000 đồng và 01 cục sạc máy tính hiệu Lenovo, trị giá 120.000 đồng; tổng cộng 210.000 đồng (Hai trăm mười nghìn đồng).
Ngoài ra, T còn trộm cắp tiền mặt với số tiền 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) của Hoàng Văn Kh nên giá trị tài sản bị cáo T chiếm đoạt tổng cộng là 48.810.000 đồng (Bốn mươi tám triệu tám trăm mười nghìn đồng).
Cơ quan Cảnh sát điều tra đã triệu tập và làm việc với Nguyễn Phú H, Nguyễn Vũ H, Trần Hồng H5.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra, bị cáo Nguyễn Phú H thừa nhận đã mua 03 (Ba) điện thoại di động nói trên, phù hợp với lời khai của bị cáo T. Bị cáo H thừa nhận dù nhận thức được 03 (Ba) điện thoại di động mà bị cáo T mang đến bán là tài sản do phạm tội mà có nhưng vẫn đồng ý mua để bán lại kiếm lời; 03 (Ba) chiếc điện thoại di động do bị cáo T bán cho bị cáo H được Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Bình Sơn định giá là 7.500.000 đồng (Bảy triệu năm trăm nghìn đồng). Bị cáo H bán lại 03 (Ba) chiếc điện thoại nêu trên cho khách hàng (Không xác định được nhân thân lai lịch người mua điện thoại) và thu lợi bất chính mỗi điện thoại 50.000 đồng, tổng cộng là 150.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2022/HS-ST ngày 02/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi tuyên xử:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phú H phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung 2017.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Phú H 07 (Bảy) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 29/01/2022 đến ngày 17/02/2022.
Về hình phạt bổ sung: Xử phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Phú H với số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) thu ngân sách nhà nước.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về tội danh và hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Hồng T, về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật Ngày 06/6/2022, bị cáo Nguyễn Phú H có đơn kháng cáo với nội dung xin được hưởng hình phạt cải tạo không giam giữ. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Tại phần kết luận của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa phúc thẩm: Mặc dù tại cấp phúc thẩm, bị cáo có cung cấp thêm giấy xác nhận của UBND xã Bình Khương về hoàn cảnh khó khăn của bị cáo là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, xét thấy mức án cấp sơ thẩm tuyên đối với bị cáo Nguyễn Phú H đã phù hợp và tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 35/2022/HS-ST ngày 02/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi về phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Phú H.
Luận cứ bào chữa của Luật sư Lê Thị N cho bị cáo Nguyễn Phú H: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Phú H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” là có căn cứ, do đó Luật sư không tranh luận về phần tội danh. Tuy nhiên, hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, vợ bị cáo mới sinh con, con mới 05 tháng tuổi, bị cáo là lao động chính trong gia đình. Đây là tình tiết giảm nhẹ mới tại cấp phúc thẩm. Khi Cơ quan Công an làm việc, bị cáo đã tự nguyện nộp số tiền thu lợi bất chính, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, góp phần sớm kết thúc vụ án; gia đình bị cáo có công với cách mạng. Đó là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cho bị cáo được hưởng hình phạt cải tạo không giam giữ.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phú H làm trong thời hạn luật định là hợp lệ, được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung:
Nguyễn Hồng T và Nguyễn Phú H mặc dù không quen biết nhau, không hứa hẹn trước, nhưng trong các ngày 29 và 30/11/2021, bị cáo Nguyễn Phú H đã 03 lần thực hiện hành vi nhận bẻ khóa bảo vệ của 07 điện thoại di động do bị cáo T trộm cắp gồm: Samsung Galaxy Note 10, Redmi Note 10 Pro, Iphone 7 Plus, OPPO A5, Iphone 7, Samsung A7, Samsung Note 10 Lite, trong đó, bẻ khóa thành công 05 điện thoại di động, còn 02 điện thoại bẻ khóa bảo vệ không thành công. Khi bị cáo T giao 07 (Bảy) chiếc điện thoại di động cho H nhận bẻ khóa thì H thấy các điện thoại có hình ảnh giao diện màn hình không phải là hình của T và nhận thức được các điện thoại trên không phải của Nguyễn Hồng T mà do Nguyễn Hồng T trộm cắp mà có, nhưng trong các ngày 29/11/2021 và 30/11/2021, Nguyễn Phú H đã mua 03 (Ba) điện thoại di động do Nguyễn Hồng T trộm cắp. Tổng giá trị 03 (Ba) điện thoại di động theo Kết luận định giá là 7.200.000 đồng (Bảy triệu hai trăm nghìn đồng). Vì vậy cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Nguyễn Phú H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phú H, Hội đồng xét xử nhận thấy: Hành vi tiêu thụ tài sản do Nguyễn Hồng T trộm cắp của bị cáo Nguyễn Phú H là tiếp tay cho Nguyễn Hồng T thuận lợi tẩu tán tài sản trộm cắp, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự tại địa phương. Cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Tại cấp phúc thẩm bị cáo cung cấp thêm giấy xác nhận của UBND xã BK về hoàn cảnh khó khăn của bị cáo. Tuy nhiên, mức hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp với hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên mức hình phạt bản án sơ thẩm đã tuyên.
[4] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là đúng quy định và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[5] Đề nghị của Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Phú H không được chấp nhận.
[6] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Phú H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Không chấp nhận nội dung kháng cáo của bị cáo Nguyễn Phú H. Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số: 35/2022/HS-ST ngày 02/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi về phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Phú H.
2. Áp dụng: khoản 1 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phú H phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” Xử phạt: bị cáo Nguyễn Phú H 07 (Bảy) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 29/01/2022 đến ngày 17/02/2022.
Về hình phạt bổ sung: Xử phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Phú H với số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) thu ngân sách nhà nước.
3. Về án phí: bị cáo Nguyễn Phú H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 83/2022/HS-PT
Số hiệu: | 83/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Ngãi |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về