Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 739/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 739/2021/HS-PT NGÀY 02/11/2021 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 02/11/2021, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 645/2021/TL.HSPT ngày 23/8/2021 đối với bị cáo: Nguyễn Thị V do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 93/2021/HS-ST ngày 07/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.

Bị cáo có kháng cáo được triệu tập đến phiên tòa:

Nguyễn Thị V, sinh năm 1968 tại thành phố Hà Nội; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Thôn Y, xã X, huyện S, thành phố Hà Nội; Giới tính: nữ; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 05/10; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị T; Chồng tên là Hoàng Văn Đ, có 04 con, lớn nhất sinh năm 1989, nhỏ nhất sinh năm 1996; Danh chỉ bản số 000000085, lập ngày 18/01/2021 tại Công an huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội; Tiền án, tiền sự: không; Giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bị tạm giữ từ ngày 09/01/2021 đến ngày 18/01/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; Có mặt.

- Trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Xuân C, Đỗ Văn M phạm tội “Trộm cắp tài sản”; Bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không kháng cáo. Viện kiểm sát không kháng nghị bản án sơ thẩm.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Tối ngày 20/12/2020, Đỗ Văn M điều khiến xe máy Honda Dream, màu nâu, BKS: 31-354.R3 đi từ nhà đến khu vực lán ao cá của Nguyễn Xuân C ở xóm Bãi, Uy Nỗ, Đông Anh, Hà Nội chơi. Tại đây, M bảo C: “chú ơi tết nhất đến nơi rồi, chú có gì không đi kiếm tí, đói quá”, C đồng ý. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, C nói với M: “đi ra đây một tý”. M hiểu ý đi trộm cắp tài sản nên đi theo. C mang theo 01 thang tre và 01 chiếc kìm điện cùng M đi đến tường rào của Chi cục dự trữ Nhà nước thuộc địa phận xã Việt Hùng, huyện Đông Anh. C sử dụng thang tre trèo lên tường rào rồi bảo M cùng trèo lên tường. Sau đó, C rút thang đặt vào bên trong cùng M và trèo xưông vào bên trong. C bảo M trèo xuống đứng ở chân tường rào, cạnh khu hàng cây để cảnh giới còn C vào trong đến khu vực Kho chứa chì. C dùng kìm điện vặn ốc vít ở tấm tôn gắn trên tường bao của Kho Chì. Sau khi tháo ốc, C dùng tay bẻ tấm tôn tạo ra một khoảng trống rồi trèo vào bên trong. C lẩn lượt bê 03 thỏi chì đặt lên tường Kho sau đó trèo ra ngoài, bê thỏi chì đặt xuống đất. C dùng kìm vặn lại ốc vít ở tấm tôn và lần lượt vác 03 thỏi chì đến chỗ M đang đứng. M trèo lên đứng trên đỉnh tường rào, C lần lượt vác các thỏi chì trèo lên thang đưa cho M đón mang ra ngoài. C bảo M đi về khu vực lán ao cá của C lấy xe máy Honda Dream, BKS: 31-354.R3 của C chở 03 thỏi chì về lán ở ao cá để bán.

Nguyễn Thị V biết 03 thỏi chì mua của C và M là do trộm cắp mà có vì những thỏi chì này không có trên thị trường nhưng vẫn mua để bán kiếm lời. Sau khi mua V đã bán lại cho anh Võ Văn T(Sinh năm 1988; HKTT: V Nội, Hông Tiên, Khoái Châu, Hưng Yên) với giá 34.000 đồng/kg. Khi bán V không nói cho anh Tbiết đó là tài sản do phạm tội mà có. V thu lời 570.000 đồng.

Lần thứ 2: Tối ngày 26/12/2020, M đi xe máy Honda Dream, màu nâu, BKS:

31-354.R3 đến lán ao cá của C để tiếp tục cùng C đi trộm cắp tài sản. Khoáng 00 giờ ngày 27/12/2020, C mang theo 01 kìm điện, 01 xe rùa và 01 thang tre đi bộ vê phía Chi cục dự trữ Nhà nước Đông Anh để trộm cắp chì, còn M nằm tại lán chờ để chở về. C trèo tường vào trong lấy được 06 thỏi chì, đưa qua tường rào sau đó C sử dụng xe rùa chở 06 thỏi chì đến mương nước, cách Chi cục dự trữ Nhà nước Đông Anh 70m cất giấu. Đến khoảng 01 giờ ngày 27/12/2020, C về lán ao cá, lấy chiếc búa mang theo và bảo M điều khiển xe máy đi ra vị trí C để 06 thỏi chì vừa trộm cắp được chở về lán ao cá của C. C dùng búa đập dập chữ trên các thỏi chì để lên xe máy cho M chở về. Khoảng 05 giờ ngày 27/12/2020, M đi xe máy chở 03 thỏi chì đến bán cho V. Biết là tài sản trộm cắp nhưng V vẫn mua; V cân được 115kg trả cho M với giá 30.000đ/kg được 3.450.000 đồng. Đến ngày 31/12/2020 M chở 03 thỏi chì còn lại đến bán cho V được 115kg với giá 30.000 đồng/kg được 3.450.000 đồng. Sau mỗi lần đi bán về M đưa tiền cho C và được C cho mỗi lần 500.000 đồng. Số tiền bán được các thỏi chì cả hai chi tiêu sử dụng cá nhân.

Nguyễn Thị V không hỏi nhưng biết 06 thỏi chì mua của C và M là do trộm cắp mà có. Sau khi mua 06 thỏi chì V bán cho vợ chồng anh Nguyễn Văn T (Sinh năm 1991), chị Trần Thị M (Sinh năm 1991) có HKTT tại: Yên Lạc, Đồng Văn, Yên Lạc, Vĩnh Phúc 06 thỏi chì tổng khối lượng 230kg với giá 34.000 đồng/kg. Sau khi mua của bị cáo V, anh T, chị M đã bán 06 thỏi chì trên cho anh Nguyễn Văn Khoa (Sinh năm 1993, HKTT: Y, Đ V, Y L, V). Số chì mua của V (03 thỏi chì) chị D (vợ anh Thắng) đã bán (không nhớ bán cho ai). Việc mua bán giữa V với anh Thắng, anh T, chị M, giữa vợ chồng anh T với anh Khoa, không ai nói và hỏi gì về nguồn gốc số chì trên. V thu lời số tiền từ việc bán 6 thỏi chì là 920.000 đồng.

Quá trình điều tra xác định Nguyễn Xuân C, Đỗ Văn M đã thực hiện 02 lần trộm cắp. Tổng số là 09 thỏi chì. Ngày 15/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra có Công văn đề nghị Hội đồng định giá tính trị giá 09 thỏi chì C. M trộm cắp. Kết quả: Hội đồng định giá thường xuyên trong tố tụng huyện Đông Anh kết luận trị giá tài sản bị mất trộm: 09 thỏi chì của 02 vụ trên là 164.552.388 đồng.

Tại Cơ quan điều tra Nguyễn Xuân C, Đỗ Văn M và Nguyễn Thị V khai nhận hành vi phạm tội, phù hợp với tài liệu điều tra thu thập được.

- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 93/2021/HS-ST ngày 07/6/2021 của Toà án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội đã quyết định:

Căn cứ: điểm c khoản 2 Điều 323; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị V phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” Xử phạt: Nguyễn Thị V 30 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 09/01/2021 đến ngày 18/01/2021.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với Nguyễn Xuân C, Đỗ Văn M; Trách nhiệm dân sự đối với Nguyễn Xuân C, Đỗ Văn M; Xử lý vật chứng; Án phí; Quyền kháng cáo của các bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 15/6/2021 bị cáo Nguyễn Thị V kháng cáo xin giảm hình phạt, được hưởng án treo.

- Tại phiên toà phúc thẩm:

+ Bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo; Không có ý kiến về tội danh, luật cấp sơ thẩm áp dụng xét xử; Khai báo thành khẩn hành vi phạm tội như tại Cơ quan điều tra; Ăn năn về hành vi phạm tội của mình và xin giảm hình phạt, được hưởng án treo.

+ Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội tham gia phiên tòa có quan điểm: Về hình thức: Đề nghị xem xét yêu cầu kháng cáo của bị cáo theo trình tự phúc thẩm. Về nội dung: Đề nghị không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo; Giữ nguyên bản án sơ thẩm; Các quyết định khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của bị cáo nộp trong thời hạn Luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

Căn cứ lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra; Phù hợp với lời khai của các bị cáo; Phù hợp biên bản nhận dạng; Phù hợp lời khai cua người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan; Phù hợp với vật chứng trộm cắp đã thu hồi; Phù hợp với tài liệu định giá vật chứng bị trộm cắp của Cơ quan tố tụng và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Ngày 20/12/2020, Nguyễn Xuân C, Đỗ Văn M đã trộm cắp 03 thỏi chì tại Chi cục dự trữ Nhà nước huyện Đông Anh thuộc xã Việt Hùng, Đông Anh, Hà Nội.

Ngày 26/12/2020, C và M tiếp tục trộm cắp 06 thỏi trì tại Chi cục dự trữ Nhà nước huyện Đông Anh thuộc xã Việt Hùng, Đông Anh, Hà Nội.

09 thỏi chì mà C, M trộm cắp được có trị giá là: 164.552.388 đồng.

Sau mỗi lần trộm cắp, C và M đều đặt vấn đề bán lại cho Nguyễn Thị V. Mặc dù, biết các thỏi chì này là do C và M trộm cắp được mà có nhưng V vẫn mua và bán lại cho nhiều người khác. Số tiền V được hưởng lợi từ việc bán các thỏi chì là 1.490.000 đồng.

Với hành vi phạm tội nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Thị V về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 323 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Xét yêu cầu kháng cáo xin giảm hình phạt, được hưởng án treo của bị cáo nhận thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, tổ chức được pháp luật hình sự bảo vệ nên cấp sơ thẩm đã áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là phù hợp.

Nhân thân bị cáo chưa có tiền án, tiền sự;

Khi lượng hình xét thấy bị cáo phạm tội 02 lần, tuy nhiên tại phiên tòa sơ thẩm đã tự nguyện nộp 10.000.000 đồng để cùng các bị cáo khác bồi thường cho bị hại; Tại phiên tòa phúc thẩm khai báo thành khẩn; Ăn năn hối cải; Gia đình có hoàn cảnh khó khăn; Bố bị cáo từng tham gia dân công hỏa tuyến được hưởng chế độ theo quyết định của Thủ tướng chính phủ; Lần đầu bị đưa ra xét xử nên để bị cáo yên tâm cải tạo giảm một phần hình phạt, cho bị cáo hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

Bởi nhận định trên, Hội đồng xét xử quyết định chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị cáo; Sửa bản án sơ thẩm; Giảm hình phạt cho bị cáo.

[3] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị V không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo nộp biên lai của Chi cục thi hành án dân sự huyện Đông Anh, Hà Nội (số AA/2020/0033861 ngày 07/6/2021) về việc bị cáo nộp 1.490.000 đồng tiền thu lợi bất chính). Xét tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã nộp 10.000.000 đồng nên số tiền 1.490.000 đồng không liên quan đến vụ án, được trả lại cho bị cáo, tuy nhiên bị cáo còn phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm nên giữ lại số tiền này để đảm bảo thi hành án.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

I. Căn cứ: điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị V; Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 93/2021/HS-ST ngày 07/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội; Giảm hình phạt cho bị cáo.

Áp dụng: điểm c khoản 2 Điều 323; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị V 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ đi thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 09/01/2021 đến ngày 18/01/2021.

II. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án: Bị cáo Nguyễn Thị V không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

III. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

IV. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án 02/11/2021.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

139
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 739/2021/HS-PT

Số hiệu:739/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về