Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 195/2020/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 195/2020/HS-ST NGÀY 18/08/2020 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ

Ngày 18 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Đ, Thành phố H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 197/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 216/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn P, giới tính: Nam, sinh năm 1991, tại tỉnh L; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp 2, xã A, huyện B, tỉnh L; nơi cư trú: 902/21 Tỉnh Lộ 43, khu phố M, phường N, quận P, Thành phố H; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; trình độ văn hóa: 10/12; Nghề nghiệp: Làm thuê; con ông: Nguyễn Văn C, sinh năm 1968 và Trần Thị K, sinh năm 1966; có vợ và có 01 con sinh năm 2017; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 09/02/2011, bị Ủy Ban nhân dân tỉnh L đưa vào cơ sở giáo dục Bến Giá về hành vi gây rối trật tự công cộng, ngày 09/01/2013 chấp hành xong Bị tạm giam từ ngày 26/3/2020- có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu xài, khoảng 00 giờ ngày 08/7/2018, Nguyễn Quốc T rủ Tăng Thành L về phòng trọ của T trộm cắp xe môtô bán lấy tiền tiêu xài, L đồng ý. Khoảng 00 giờ 10 phút cùng ngày, L đón xe Grap đến nhà trọ của T tại số 1127/16A đường Tỉnh lộ 43, khu phố 2, phường B, quận Đ, Thành phố H để gặp T sau đó vào phòng trọ của T xem đá banh. Khoảng 02 giờ cùng ngày, nhận thấy mọi người trong phòng trọ đã ngủ nên L và T đi xuống nhà để xe của nhà trọ, T lấy chìa khóa mở cửa nhà để xe sau đó dắt 01 xe mô tô hiệu Exciter màu đen- trắng, biển số: 61C1-xxxxx của anh Đinh Văn T đẩy ra ngoài, còn L mở cửa nhà trọ cho T đẩy xe ra. Do không nổ máy xe môtô biển số 61C1- xxxxx được nên cả 02 đẩy xe môtô vào một ngôi nhà đang xây đối diện nhà số 1127/5, đường Tỉnh lộ 43, phường B, quận Đ, Thành phố H, cả 02 mở mặt nạ xe môtô rồi đấu dây điện để nổ máy xe nhưng vẫn không được nên L, T đã cất dấu xe môtô tại đây rồi L đi uống nước tại 01 quán café (không nhớ rõ địa chỉ cụ thể) ngồi đợi T bán xe vừa trộm cắp được, T gọi điện thoại di động cho Nguyễn Văn P nói có 01 xe môtô T vừa trộm cắp được cần đổi xe khác hoặc bán. P gọi điện thoại di động cho P và nói P đến gặp T để nhận chiếc xe môtô biển số 61C1-xxxxx đi bán, P cùng 01 thanh niên tên T (không rõ lai lịch) điều khiển xe môtô hiệu Dream (không rõ biển số) đến ngôi nhà đang xây gặp T nhận xe, sau đó P điều khiển xe môtô hiệu Dream đẩy xe môtô Exciter do T điều khiển đi đến khu gà mả hẻm 1155, đường Tỉnh lộ 43, phường B, quận Đ, Thành phố H. Tại khu gò mả, T, P, T bỏ chiếc xe Exciter lại rồi ra về. Khoảng 09 giờ ngày 08/7/2018, P gọi điện thoại cho P thì biết xe đang được cất dấu tại phòng trọ Nguyễn Văn P, địa chỉ phòng trọ số 2, nhà không số, kế số 1155/3/4 đường Tỉnh lộ 43, khu phố 2, phường B, quận Đ, Thành phố H. Khoảng 19 giờ ngày 08/7/2018, P điện thoại cho P mua 01 bình sơn xịt màu đen cùng với P sơn lại dàn mủ, biển số của chiếc xe Exciter để đem đi bán. Sau khi sơn đen chiếc xe và biển số xe, khoảng 20 giờ ngày 08/7/2018, P điều khiển xe môtô Exciter biển số 61C1-xxxxx qua trước chợ Tân Chánh Hiệp, khu phố 5, phường Tân Chánh Hiệp, Quận 12, Thành phố H bán chiếc xe trên cho Nguyễn Thị Sa L và 01 người phụ nữ (không rõ lai lịch) với giá 9.000.000 đồng, P về đưa cho P 8.000.000 đồng, còn lại 1.000.000 đồng P chia cho T 500.000 đồng, trả tiền xe Grap 300.000 đồng còn lại 200.000 đồng P đã tiêu xài hết. Khoảng 22 giờ cùng ngày T gọi cho P hỏi xe đâu thì P nói đã bán xe với giá 7.000.000 đồng, P trừ nợ T 3.000.000 đồng còn lại 4.000.000 đồng P đưa cho 01 người phụ nữ tên Vy (bạn của L, T). Số tiền bán xe có được P đã tiêu xài hết.

Bản kết luận định giá tài sản số 1507/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 16/7/2018 của Hội đồng định giá Ủy Ban nhân dân quận Đ kết luận: 01 xe môtô hiệu Yamaha Exciter biển số 61C1-xxxxx trị giá 20.000.000 đồng.

Ngày 23/11/2018, Tòa án nhân dân quận Đ đã xử phạt Tăng Thành L 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Nguyễn Quốc T 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, Lâm Hoài P 09 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” Ngày 17/7/2018, Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã ra Quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn P về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” tuy nhiên trong quá trình điều tra, P đã bỏ trốn khỏi địa phương. Ngày 05/10/2018, Cơ quan Cảnh sát Điều tra ra Quyết định tách vụ án hình sự, ra Quyết định truy nã đối với Nguyễn Văn P. Ngày 26/3/2020, Nguyễn Văn P đã đến Cơ quan Cảnh sát Điều tra – Công an quận Đ đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi nêu trên.

Tại bản cáo trạng số 210/CT-VKSTĐ ngày 17/7/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Đ, Thành phố H đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn P về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, sau khi trình bày bản luận tội vị đại diệnViện kiểm sát nhân dân quận Đ vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 06-09 tháng tù.

Bị cáo Nguyễn Văn P đã khai nhận toàn bộ hành vi như nội dung bản cáo trạng đã truy tố, bị cáo đã tác động để vợ bị cáo nộp lại số tiền thu lợi bất chính 4.000.000 đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra công an quận Đ, Thành phố H, Điều tra Viên, Kiểm sát viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Đ, Thành phố H trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn P phù hợp với lời khai của các bị cáo khác (đã xét xử), phù hợp với bản kết luận định giá tài sản, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án có cơ sở xác định:

Bị cáo Nguyễn Văn P biết rõ xe môtô hiệu Yamaha Exciter biển số 61C1- xxxxx là do Tăng Thành L, Nguyễn Quốc T phạm tội mà có nhưng bị cáo Nguyễn Văn P vẫn giao cho Lâm Hoài P bán chiếc xe trộm cắp cho Nguyễn Thị Sa L (chưa rõ lai lịch) nhằm hưởng lợi 4.000.000 đồng. Hành vi này của bị cáo Nguyễn Văn P đã phạm vào tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 như bản cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân quận Đ, Thành phố H là có căn cứ.

[3]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, sau khi bị truy nã bị cáo đã ra đầu thú, bị cáo đã tác động gia đình đóng tiền thu lợi bất chính số tiền 4.000.000 đồng. Do đó cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt mà lẽ ra bị cáo phải chịu.

[4]. Về trách nhiệm dân sự và vật chứng vụ án: Đã được giải quyết tại bản án số 315/2018/HSST ngày 23/11/2018 của Tòa án nhân dân quận Đ, Thành phố H.

[5]. Trong vụ án này còn có các bị cáo Tăng Thành L, Nguyễn Quốc T, Lê Thị Kim Ngân, Lâm Hoài P đã được xét xử tại bản án số 315/2018/HSST ngày 23/11/2018 của Tòa án nhân dân quận Đ, Thành phố H.

[6]. Đối với số tiền mà bị cáo Nguyễn Văn P thu lợi bất chính 4.000.000 đồng, bị cáo đã nộp thì cần tịch thu sung công.

Xét cần buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn P phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” Áp dụng Khoản 1 Điều 323; Điểm i, s khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 07 (bảy) tháng tù Thời hạn tù tính từ ngày 26/3/2020 2. Áp dụng Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu sung công quỹ số tiền 4.000.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tiền số 0003080 ngày 12/8/2020 và số 0003091 ngày 17/8/2020 của Chi cục thi hành án dân sự quận Đ, Thành phố H.

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Văn P phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, điều 7, điều 7a, 7b điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

65
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 195/2020/HS-ST

Số hiệu:195/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về