TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ H
BẢN ÁN 38/2023/HS-PT NGÀY 01/03/2023 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN
Ngày 01 tháng 3 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố H, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 461/2022/TLPT-HS ngày 03/11/2022 đối với bị cáo Nguyễn Thành H do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 135/2022/HS-ST ngày 20/9/2022 của Tòa án nhân dân Quận 7,Thành phố H.
Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Thành H, sinh năm 1965 tại tỉnh B; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký Hộ khẩu thường trú và cư trú: Số 02 Chu Văn An, Khu phố 5, phường Lý Thường Kiệt, Thành phố Q, tỉnh B; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Máy Trưởng; Trình độ học vấn: 12/12; Con ông Nguyễn Th (đã chết) và con bà Trần Thị Thanh T (đã chết); có vợ Đặng Thu H , sinh năm 1973 và có 02 người (lớn nhất sinh năm 1999, nhỏ nhất sinh năm 2002). Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo Bị cáo tại ngoại - có đơn xin xét xử vắng mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Đặng Hoài Vũ - Văn phòng Luật sư Đặng Hoài Vũ và Đồng sự; Đoàn Luật sư Thành phố H. (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 05/01/2018, Công ty TNHH MTV Vận tải biển C (nay là Công ty TNHH Vận tải Biển T) ký hợp đồng nguyên tắc với Công ty TNHH Vận tải H (Công ty H) cung cấp khối lượng 100m3 dầu FO để chạy máy tàu THS3 thuộc Công ty C. Khi tàu S (THS3) cập Cảng VICT, địa chỉ: Khu phố 5, phường Tân Thuận Đông, Quận 7, Thành phố H. Sau đó, Công ty H ký hợp đồng vận chuyển khối lượng 100m3 dầu FO lên tàu THS3, với Công ty TNHH Dịch vụ hàng hải dầu khí M (Công ty M). Công ty M thực hiện vận chuyển 100m3 dầu FO đến Cảng VICT để nhập dầu lên tàu THS3 bằng 07 xe bồn có biển số như sau: 51C-xxxxx, 51C-xxxxx, 51C-xxxxx, 51C- xxxxx, 51C-xxxxx, 51E-xxxxx và 57K-xxxxx.
Vào sáng ngày 19/6/2019, Nguyễn Thành H, chức danh: Máy trưởng tàu THS3 thuộc Công ty C được phân công nhiệm vụ và quyền hạn: Quản lý hoạt động máy tàu… quản lý, tiếp nhận và ký biên bản giao nhận nhiên liệu của đơn vị cung cấp để báo cáo về Công ty thông qua Thuyền trưởng, cập cảng VICT để tiếp nhận 100m3 dầu FO (gồm 07 xe ô tô tải chở bồn dầu) theo hợp đồng với Công ty H. Tuy nhiên, Nguyễn Thành H chỉ nhận lượng dầu của 06 xe ô tô tải chở bồn, còn 01 xe ô tô tải chở bồn do bị hỏng chưa giao kịp, nhưng đã ký xác nhận vào hợp đồng và gửi email về Công ty C xác nhận đã nhận đủ khối lượng và chất lượng dầu FO trên. H và Ngô Tấn L (Đại diện Công ty M) ký vào hóa đơn xuất hàng của Công ty H giao, nhận đủ với số lượng 100m3 dầu FO. Đối với xe ô tô tải bồn biển số: 51C-xxxxx chưa giao dầu cho tàu THS3. Tài xế Nguyễn Văn G báo cho L xe hư đang sửa xe ở đường Đào Trí, phường P, Quận 7, đến chiều sẽ giao đủ. Long báo H biết việc xe bị hư hỏng. Sau đó tài xế G báo lại xe bị hư cầu, hộp số phải sửa mất một đến hai ngày. L liên hệ với một số xe chở dầu FO để thuê chở dầu giao cho kịp theo hợp đồng, nhưng những tài xế L liên hệ đều đang có khách thuê chở. L báo cho H tình trạng xe hư đang phải sửa chữa phải mất một, hai ngày. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày thì giao xong 06 xe dầu FO cho tàu THS3, nhưng xe của G vẫn chưa sửa xong. L báo lại cho H. H nói đến 13 giờ cùng ngày thì tàu rời cảng và H nói muốn bán lại lượng dầu trên với giá 6.000 đồng/kg (60.000.000 đồng). L lo lắng vì nếu không giao dầu đủ số lượng và kịp thời gian cho tàu THS3, không hoàn thành nhiệm vụ và chịu trách nhiệm trước Công ty, vì có thể vi phạm hợp đồng, Công ty H phải bồi thường vi phạm cho Công ty C, như vậy Công ty H sẽ yêu cầu Công ty M bồi thường vi phạm. H ký nhận đủ số lượng dầu như trong hợp đồng nêu, L thấy việc mua dầu của H là H có thẩm quyền tiếp nhận và quản lý, nên việc mua bán thuộc thẩm quyền của H, không biết là do H phạm tội mà có, vì H có chức danh máy trưởng và cũng giúp cho Long hoàn thành nhiệm vụ được giao nên L đồng ý mua để bán lại kiếm lời. Sau đó, Công ty C kiểm tra vào thời diểm trên chỉ có 06 xe bồn dầu FO lên tàu, thiếu 01 xe, trong đó xe biển số 51C-xxxxx không vào Cảng VICT giao hàng. Công ty C xác định Nguyễn Thành H lợi dụng chức danh máy trưởng, được phân công quản lý nhiên liệu dầu để vận hành tàu chiếm đoạt 9.753 kg dầu FO trị giá 135.648.625 đồng. Công ty C gửi đơn tố cáo đến Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Quảng Nam. Do không thuộc thẩm quyền giải quyết vụ việc trên Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an tỉnh Quảng Nam chuyển đơn tố giác đến Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an Quận 7 xác minh, làm rõ xử lý theo quy định.
Số lượng dầu FO 9.753 kg. Nguyễn Thành H khai bán 9.753 kg dầu FO cho Ngô Tấn Long với giá 60.000.000 đồng. Ngô Tấn L khai đã bán cho một thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) ở đường Đào Trí, Quận 7 với giá 80.000.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra chưa thu hồi được. Tại Kết luận định giá tài sản của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự -Ủy ban nhân dân Quận 7 số 388/KL-HĐĐGTTHS ngày 12/11/2019 kết luận: dầu FO 3,5s, số lượng 9.753 kg x đơn giá 13.908.399 đồng = 135.648.625 đồng.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 135/2022/HSST ngày 20/9/2022 của Tòa án nhân dân Quận 7,Thành phố H, đã quyết định: Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 353; điểm b, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành H 04 (bốn) năm tù về tội “Tham ô tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành bản án Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự buộc Nguyễn Thành H phải bồi thường số tiền 8.300.000 đồng cho Công ty TNHH MTV Vận tải Biển C (nay là Công ty TNHH Vận tải Biển T), án phí, xử lý vật chứng và thời hạn kháng cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22/9/2022 bị cáo Nguyễn Thành H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin hưởng án treo đồng thời bị cáo xuất trình thêm chứng từ đã thanh toán số tiền 8.300.000 đồng cho Công ty TNHH MTV Vận tải Biển C Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Thành H có đơn xin xét xử vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố H tại phiên tòa phúc thẩm:
Phiên tòa đã mở tới lần thứ 4, bị cáo xin hoãn phiên tòa vì lý do sức khỏe bị tai biến nằm viện nhưng Viện kiểm sát đã xác minh yêu cầu bệnh viện Hòa Bình cung cấp bệnh án xác định bị cáo không bị tai biến, bị cáo chỉ muốn kèo dài thời gian mà thôi. Cấp sơ thẩm xét xử đối với bị cáo là đúng người, đúng tội. Bản án sơ thẩm, xử phạt bị cáo 04 năm tù là phù hợp nên đề nghị không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; Giữ nguyên Bản án sơ thẩm.
Luật sư trình bày: Bị cáo H đã khắc phục hoàn toàn thiệt hại trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, tại quá trình điêu tra và phiên tòa sơ thẩm bị cáo rất thành khẩn, ăn năn hối cải về hành vi của mình; số tiền 8,3 triệu đồng phát sinh là tại phiên tòa sơ thẩm công ty Trường Hải yêu cầu số tiền thuế VAT, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo đã khắc phục toàn bộ số tiền này; Về nhân thân của bị cáo Tòa sơ thẩm chưa xem xét cha mẹ vợ bị cáo là ông Đặng Thâu và bà Đào Thị Lã là cán bộ lão thành cách mạng được tặng bằng khen, giấy khen nên đề nghị xem xét áp dụng cho bị cáo điểm s, b khoản 1 khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự giảm nhẹ cho bị cáo; bị cáo cũng có thời gian cống hiến lâu dài trong Công ty Trường Hải, được công ty ghi nhận; bệnh tật thật sự bị cáo có bị bệnh, 1 bên tay của bị cáo tê, muốn liệt, khó khăn.
Bị cáo có đơn xin vắng mặt nên không tranh luận và không có lời nói sau cùng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Trong quá trình điều tra và và tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Thành H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, từ đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để xác định: Nguyễn Thành H là nhân viên của Công ty TNHH MTV Vận tải biển C (nay là Công ty TNHH Vận tải Biển T), được Công ty TNHH MTV Vận tải biển C quyết định, phân công chức danh, là máy trưởng tàu THS3 có quyền hạn, trách nhiệm quản lý nhiên liệu dầu FO để vận hành máy tàu. Bị cáo H chiếm đoạt tài sản mình có trách nhiệm quản lý 9.753kg dầu FO 3,5s, trị giá 135.648.625 đồng, của Công ty TNHH MTV Vận tải biển C.
Hành vi của bị cáo Nguyễn Thành H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tham ô tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d Khoản 2 Điều 353 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Án sơ thẩm số 135/2022/HSST ngày 20/9/2022 của Tòa án nhân dân Quận 7,Thành phố H đã xét xử bị cáo H về tội danh điều luật như trên là đúng người, đúng tội, không oan sai.
Khi lượng hình cấp sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường, khắc phục hậu quả; bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, gia đình có hoàn cảnh khó khăn (hai con đang học Đại học), bị cáo sinh năm 1965 đến nay cũng 57 tuổi nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo và xử bị cáo 04 năm tù là có phần nghiêm khắc. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay bị cáo đã bồi thường cho Công ty TNHH MTV Vận tải biển C số tiền 8.300.000 đồng nên đây được xem là tình tiết giảm nhẹ mới cần xem xét cho bị cáo. Xét giá trị tài sản bị chiếm đoạt là không lớn, bị cáo phạm tội lần đầu, đã bồi thường khắc phục toàn bộ hậu quả, gia đình vợ bị cáo có công cách mạng. Do vậy cần xem xét giảm nhẹ thêm cho bị cáo. Nên có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo; Sửa bản án sơ thẩm.
Việc bị cáo phát sinh bệnh tật sau khi phạm tội hay không, không làm căn cứ để quyết định hình phạt.
[3] Về án phí: bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thành H; Sửa bản án sơ thẩm;
Căn cứ điểm d Khoản 2 Điều 353; điểm b, s Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành H 02 (hai) năm tù về tội “Tham ô tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành bản án Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tham ô tài sản số 38/2023/HS-PT
Số hiệu: | 38/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 01/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về