Bản án về tội tham ô tài sản số 09/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUẢNG NINH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 09/2023/HS-ST NGÀY 27/02/2023 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

Trong ngày 27 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 03/2023/HSST ngày 02 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/2023/QĐXX-ST ngày 14 tháng 02 năm 2023 đối với: Bị cáo Hà Thị Huyền T, sinh ngày 24 tháng 7 năm 1983; nơi sinh: Xã V, huyện Q; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn P, xã A, huyện Q, tỉnh Q. nghề nghiệp: Công chức; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nữ; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Hà Xuân N và bà Đỗ Thị H; có chổng Trần Thanh H, có 03 con, lớn nhất sinh năm 2006, nhỏ nhất sinh 2018; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Nguyên đơn dân sự: Phòng Lao động - Thương binh Xã hội huyện ; người đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Công T – chức vụ T.

Đại diện theo ủy quyền bà Nguyễn Thị Thanh T – chức vụ Phó T. Có mặt

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

- UBND xã V, huyện Q, tỉnh Q, đại diện theo pháp luật: Ông Nguyễn Hữu L – chức vụ: Chủ tịch UBND xã. Đại diện theo ủy quyền bà Trần Thị H, chức vụ: Phó Chủ tịch UBND xã. Có mặt

- Ông Ngô Văn T, sinh ngày 10/11/1974, địa chỉ: Thôn X, xã V, huyện Q, tỉnh Q, nghề nghiệp: làm ruộng.Vắng mặt

- Bà Ngô Thị Hải Y, sinh ngày 16/5/1980, địa chỉ: Thôn X, xã V, huyện Q, tỉnh Q, nghề nghiệp: Làm ruộng. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Từ năm 2011 đến nay, Hà Thị Huyền T, sinh năm 1983, trú tại thôn P, xã A, huyện Q, tỉnh Q là cán bộ công chức thuộc Uỷ ban nhân dân xã V. Trong năm 2017, Hà Thị Huyền T được phân công phụ trách công tác chính sách- xã hội của Ủy ban nhân dân xã. T là người trực tiếp thực hiện việc tiếp nhận tiền hỗ trợ mai táng phí đối với đối tượng trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ theo Quyết định 290/2005/QĐ-TTg ngày 08/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ với số tiền 12.100.000đ (mười hai triệu một trăm ngàn đồng) từ Phòng Lao động- thương binh và xã hội huyện Q để chi trả cho ông Ngô Văn T, sinh năm 1974, ở thôn Xuân Sơn, xã V, huyện Q, tỉnh Q là con ông Ngô H (đối tượng được hưởng chế độ theo Quyêt định số 290).

Tuy nhiên, sau khi nhận số tiền trên, Hà Thị Huyền T không thực hiện việc thông báo và chi trả cho ông Ngô Văn T mà đã chiếm đoạt sử dụng vào mục đích cá nhân. T giả mạo chữ ký của ông T vào chứng từ chi trả số tiền trên để hoàn thiện hồ sơ quyết toán tại Phòng Lao động- thương binh và xã hội huyện Q. Đến tháng 8 năm 2021, sau khi ông Ngô Văn T đến Ủy ban nhân dân xã V để hỏi về số tiền hỗ trợ kinh phí mai táng thì Hà Thị Huyền T đã chuyển trả số tiền 11.500.000đ (mười một triệu năm trăm ngàn đồng) cho ông Ngô Văn T. Còn 600.000đ (sáu trăm ngàn đồng) Hà Thị Huyền T khai gia đình chị Y anh T cho T. Sau khi Uỷ ban kiểm tra Đảng ủy xã V kiểm tra phát hiện, T đã giao nộp số tiền 600.000 đồng cho Ủy ban nhân dân xã V để trả lại cho ông Ngô Văn T.

Về dân sự: Ông Ngô Văn T đã nhận lại đủ số tiền hỗ trợ kinh phí mai táng 12.100.000đ (mười hai triệu một trăm ngàn đồng) và không có yêu cầu gì thêm.

Bản Cáo trạng số 07/CT-VKS - KT, ngày 02 tháng 02 năm 2023, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q đã truy tố bị cáo Hà Thị Huyền T về tội “ Tham ô tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 278 của Bộ luật hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Q giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng, có xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với bị cáo.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 278; các điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 2 Điều 7 Bộ luật hình sự 2015; mục a, b, c khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội. Xử phạt bị cáo Hà Thị Huyền T từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Bị cáo Hà Thị Huyền T thừa nhận hành vi phạm tội của mình như quan điểm luận tội và đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Q, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên toà, bị cáo Hà Thị Huyền T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình: Trong năm 2017, bị cáo Hà Thị Huyền T lợi dụng chức vụ được phân công là phụ trách công tác chính sách- xã hội của Ủy ban nhân dân xã V T đã không thông báo, không chi trả và giả mạo chữ kí của ông Ngô Văn T để hoàn tất chứng từ nhằm chiếm đoạt số tiền 12.100.000đ (mười hai triệu một trăm ngàn đồng) tiền hỗ trợ kinh phí mai táng đối với đối tượng trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ (theo Quyết định 290/2005/QĐ-TTg ngày 08/11/2005 của Thủ tướng Chính phủ), để sử dụng vào mục đích cá nhân.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 278 của Bộ luật hình sự năm 1999 thì 1. Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý trị giá từ năm trăm ngàn đồng đến dưới năm mươi triệu đồng hoặc dưới năm trăm ngàn đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm… Hành vi của bị cáo Hà Thị Huyền T đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tham ô tài sản”. Xét thấy, lời khai nhận của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác cũng như các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được tại hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, đã có đủ căn cứ để kết luận: Bị cáo Hà Thị Huyền T đã phạm vào tội “ Tham ô tài sản” được quy định tại khoản 1 Điều 278 của Bộ luật hình sự 1999. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q và lời luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa đối với bị cáo về tội danh, hình phạt là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi của bị cáo thấy rằng:

Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý, đã trực tiếp xâm phạm đến việc quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước và xâm phạm đến quyền được thụ hưởng các khoản tiền chi cho cá nhân theo chế độ quy định từ nguồn ngân sách nhà nước, luôn được pháp luật tôn trọng và bảo vệ, đồng thời hành vi của bị cáo làm ảnh hưởng uy tín của cán bộ, công chức đối với nhân dân, ảnh hưởng đến công tác phòng chống tham nhũng tại địa phương nói riêng và toàn xã hội nói chung. Để có tiền phục vụ cho mục đích cá nhân, bị cáo lợi dụng sự lỏng lẻo trong công tác quản lý chi trả tiền chế độ chính sách để chiếm đoạt số tiền 12.100.000đ (mười hai triệu một trăm ngàn đồng) mà bị cáo phải có trách nhiệm chi trả cho đối tượng được thụ hưởng do đó cần phải xử lý nghiêm.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Trong quá trình công tác bị cáo được Chủ tịch UBND huyện Q tặng danh hiệu Chiến sĩ thi đua cơ sở năm 2014; Sở Văn hóa - Thông tin Q tặng Giấy khen về thành tích trong xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở năm 2005; được Ban chấp hành Đảng bộ xã V tặng Giấy khen về thành tích xuất sắc trong học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh năm 2015; được Chủ tịch UBND huyện Q tặng Giấy khen vì đã có nhiều thành tích trong công tác năm 2017; được Trưởng Ban chỉ đạo vận động hiến máu tình nguyện tỉnh Q tặng Giấy khen về thành tích xuất sắc trong công tác hiến máu tình nguyện năm 2018; được Cục trưởng Cục thống kê Q tặng Giấy khen về thành tích xuất sắc trong tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019. Ngoài ra bị cáo có hoàn cảnh gia đình đặc biệt khó khăn, bị cáo có 03 con nhỏ, chồng bị cáo bị tai nạn chấn thương sọ não, bị cáo là lao động chính duy nhất trong gia đình được chính quyền địa phương xác nhận. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ hình phạt theo điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999.

Sau khi xét tính chất của vụ án và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng nhưng bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, nên khi quyết định hình phạt xét thấy cần phải áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 1999 để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định để thể hiện tính khoan hồng của pháp luật đối với người phạm tội. Để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật Hội đồng xét xử nhận thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để răn đe, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt có ích cho gia đình và hội là điều cần thiết.

Xét thấy bị cáo bị phạt hình phạt tù có thời hạn nên không thể đảm nhiệm công tác hiện tại trong khoảng thời gian nhất định, tính nguy hiểm của hành vi bị cáo gây ra cho xã hội không còn nên Hội đồng xét xử không áp dụng khoản 5 Điều 278 của Bộ luật hình sự năm 1999 để phạt bổ sung đối với cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Ông Ngô Văn T đã nhận lại đủ số tiền hỗ trợ kinh phí mai táng 12.100.000đ (mười hai triệu một trăm ngàn đồng) và không có yêu cầu gì thêm.

[6] Về án phí: Bị cáo Hà Thị Huyền T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vụ án có quyền kháng cáo theo luật định

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136, điểm g khoản 2 Điều 260, khoản 1 Điều 268, khoản 1 Điều 269, khoản 1 Điều 298, khoản 1 và khoản 4 Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Căn cứ khoản 1 Điều 278; các điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46, Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 2 Điều 7 Bộ luật hình sự 2015; mục a, b, c khoản 1 Điều 2 nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội

1. Về tội danh và hình phạt:

- Tuyên bố: Bị cáo Hà Thị Huyền T phạm tội “ Tham ô tài sản”.

- Xử phạt: Bị cáo Hà Thị Huyền T 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị bắt đi thi hành án.

2. Về trách nhiệm nhiệm dân sự: Không xem xét.

3. Án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Hà Thị Huyền Trang phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo, nguyên đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

4
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tham ô tài sản số 09/2023/HS-ST

Số hiệu:09/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quảng Ninh - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về