Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 33/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GC, TỈNH TG

BẢN ÁN 33/2023/HS-ST NGÀY 29/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 29 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã GC, tỉnh TG xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 28/2023/TLST-HS ngày 19 tháng 7 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2023/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2023, đối với bị cáo:

Lý Quốc Đ, sinh ngày 10/5/1985 tại tỉnh TG; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: khu phố Dương Phú, thị trấn Tân Hòa, huyện Đ, tỉnh TG; Chỗ ở: khu phố 2, Phường 5, thị xã GC, tỉnh TG; Nghề nghiệp: Công nghệ thông tin; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lý Chí Q, sinh năm 1964 (chết) và bà Cao Kim L, sinh năm 1960; Có vợ và 02 con, sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo tại ngoại (theo lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 107 ngày 17/4/2023 của Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh TG), có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Chị Nguyễn Huỳnh T, sinh năm 1991 (Có mặt); Nơi cư trú: Ấp Ô, xã T, thị xã GC, tỉnh TG;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 5/2022, bị cáo Đ tìm hiểu và liên hệ với người mua bán súng trên mạng xã hội (không rõ họ tên, địa chỉ) đặt mua 01 khẩu súng Rulô bằng kim loại màu đen và 06 viên đạn với giá tiền là 5.000.000 đồng. Sau khi thanh toán tiền và nhận được súng thì cất giấu tại phòng trọ thuê tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh. Đến tháng 01/2023, bị cáo trả phòng trọ nên đen súng và đạn về cất giấu tại nhà ở khu phố 2, Phường 5, thị xã GC, tỉnh TG.

Đến ngày 09/01/2023, do có mâu thuẫn với chị Nguyễn Huỳnh T là người chung sống như vợ chồng với bị cáo. Bị cáo chở chị T đến quán ốc “Đào” thuộc khu phố 2, Phường 5, thị xã GC để nói chuyện về việc yêu cầu chị T nghỉ làm tại quán Karaoke, sau đó hai bên xảy ra mâu thuẫn nên bị cáo dùng súng và 06 viên đạn do bị cáo chuẩn bị từ trước để trong túi xách màu đen có quai, bên trong có túi vải màu đen quai màu đỏ để hù dọa chị T. Khi thấy bị cáo có mang theo súng nên chị T giật mạnh túi xách làm súng, đạn rơi xuống đất. Bị cáo Đ nhặt khẩu súng cất vào túi, chị T nhặt 06 viên đạn giấu vào trong người không đưa lại cho bị cáo vì sợ bị cáo sẽ sử dụng.

Sau khi sự việc xảy ra bị cáo Đ điều khiển xe chở T đến nhà anh Nguyễn Xuân Th, sinh ngày 25/6/1990 ở khu phố 2, Phường 5, thị xã GC, tỉnh TG nhưng dựng xe ở phía xa một mình đi bộ đến gặp Th đưa túi vải chứa khẩu súng nhưng lại nói là nhờ giữ giúp túi quần áo, ngày mai đến lấy. Khi nhận túi vải Đ đưa, Th không mở ra xem, không biết bên trong có chứa súng.

Riêng 6 viên đạn do chị T nhặt cất giấu, sau đó T đã ném bỏ.

Tang vật thu giữ:

- 01 khẩu súng rulo màu đen bằng kim loại màu đen, thân súng ký hiệu “SMITH&WESSON, ZP5, MADE IN CHINA”;

- 01 túi xách màu đen có quai, mặt trước ký hiệu “WEIXIER”;

Theo kết luận giám định số 97/KL-KTHS (Đ2) ngày 06/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh TG kết luận: Khẩu súng gửi giám định là súng được chế tạo thủ công từ súng đồ chơi nguy hiểm hiệu SMITH&WESSON; súng sử dụng để bắn được với loại đạn thể thao cỡ (5,6x15,5)mm. Khẩu súng trên là vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng và là vũ khí quân dụng.

Tại bản cáo trạng số 15/CT-VKSTG-P1 ngày 18/7/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh TG truy tố bị cáo Lý Quốc Đ về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ đã thể hiện, không có ý kiến tranh luận bổ sung. Bị cáo đã ăn năn hối cải về hành vi của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã GC vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 304, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Lý Quốc Đ từ 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng đến 02 (Hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Về vật chứng vụ án đề nghị: Căn cứ Điều 47, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Giao cho Ban chỉ huy quân sự thị xã Gò Công, tỉnh TG xử lý theo quy định:

01 khẩu súng rulo bằng kim loại màu đen, thân súng ký hiệu “SMITH&WESSON, ZP5, MADE IN CHINA”.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 túi xách màu đen có quai, mặt trước ký hiệu “WEIXIER”.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

* Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã biết lỗi, bị cáo rất ăn năn, hối cải về hành vi của mình. Mong Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã GC, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân thị xã GC, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa bị cáo Lý Quốc Đ đã khai nhận: Do bị cáo không muốn chị T tiếp tục làm việc tại quán Karaoke nên ngày 09/01/2023, bị cáo chở chị T đến quán ốc “Đào” thuộc khu phố 2, Phường 5, thị xã GC để nói chuyện thì xảy ra cự cãi nên bị cáo kéo khóa túi xách màu đen, mở túi vải màu đen có quai màu đỏ để lộ khẩu súng rulo bằng kim loại màu đen, thân súng ký hiệu “SMITH&WESSON, ZP5, MADE IN CHINA” ra bên ngoài để hù dọa chị T. Khi thấy chị T giật mạnh túi xách làm súng và 6 viên đạn rơi xuống đất. Chị T nhặt 06 viên đạn giấu vào trong người, bị cáo nhặt khẩu súng cất vào túi.

Theo kết luận giám định súng bị cáo Đ tàng trữ là vũ khí có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng và là vũ khí quân dụng.

Lời khai nhận trên của bị cáo phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường, vật chứng thu giữ, Kết luận giám định đồng thời trùng khớp với các lời khai trước đây của bị cáo tại Cơ quan cơ điều tra và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lý Quốc Đ phạm tội “Tàng trữ, trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật hình sự.

Do đó, Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội danh và điều khoản nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Xét về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến an ninh trật tự xã hội và quyền quản lý của Nhà nước đối với vũ khí quân dụng và vật liệu nổ, được pháp luật bảo vệ, gây bất bình và dư luận xấu trong xã hội, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, bị cáo nhận thức được hành vi tàng trữ, sử dụng vũ khí quân dụng và vật liệu nổ là trái pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do đó, việc áp dụng hình phạt cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian tương xứng với hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra là cần thiết nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo có ý thức tôn trọng pháp luật và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Hội đồng xét xử nhận thấy trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì thái độ của bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và bị cáo có thời gian đi nghĩa vụ quân sự từ tháng 03/2008 đến tháng 09/2009. Từ đó, Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự khi lượng hình.

[6] Về vật chứng, xử lý vật chứng:

[6.1] Đối với 01 khẩu súng rulo bằng kim loại màu đen, thân súng ký hiệu “SMITH&WESSON, ZP5, MADE IN CHINA” là tang vật của vụ án nên giao cho Ban chỉ huy quân sự thị xã Gò Công, tỉnh TG xử lý theo quy định là phù hợp quy định tại Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6.2] Đối với 01 túi xách màu đen có quai, mặt trước ký hiệu “WEIXIER” bị cáo sử dụng để khẩu súng, là tang vật của vụ án, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

[6.3] Đối với 6 viên đạn do Nguyễn Huỳnh T nhặt cất giấu, sau đó đã ném bỏ, Cơ quan An ninh điều tra không thu hồi được và túi vải màu đen có quai màu đỏ chứa khẩu súng, khi Công an Phường 5 mời Nguyễn Xuân Th làm việc chỉ thu giữ khẩu súng trên và trả túi vải lại cho Lý Quốc Đ, Lý Quốc Đ vứt bỏ thùng rác ở Công an Phường 5 nên Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh TG không thu hồi được là có cơ sở nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[7] Về các tình tiết khác:

[7.1] Bị cáo Đ khai nhận đã liên hệ với người trên mạng xã hội để đặt mua súng nhưng không biết thông tin về nhân thân, đặc điểm nhận dạng, nơi ở của người này. Do đó, Cơ quan An ninh điều tra không có căn cứ để tiếp tục xác minh thông tin nhân thân, lai lịch của người bán súng để xử lý là có cơ sở.

[7.2] Đối với Nguyễn Huỳnh T, trong thời gian sống chung như vợ chồng với với bị cáo, T hoàn toàn không biết, không hứa hẹn trước, không giúp sức cho bị cáo trong việc tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng nên Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh TG không khởi tố xử lý Nguyễn Huỳnh T là có cơ sở.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[9] Từ những phân tích nêu trên, xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở, phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 304, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

- Các Điều 106, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự;

- Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên bố bị cáo Lý Quốc Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

Xử phạt bị cáo Lý Quốc Đ 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Về biện pháp tư pháp:

Giao Ban chỉ huy quân sự thị xã GC tỉnh TG xử lý theo quy định: 01 khẩu súng rulo bằng kim loại màu đen, thân súng ký hiệu “SMITH&WESSON, ZP5, MADE IN CHINA”.

Tịch thu tiêu hủy: 01 túi xách màu đen có quai, mặt trước ký hiệu “WEIXIER”.

Thời gian thực hiện khi án có hiệu lực pháp luật.

Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/8/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã GC và Công an tỉnh TG.

Về án phí: Buộc bị cáo Lý Quốc Đ phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 33/2023/HS-ST

Số hiệu:33/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Gò Công - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về