Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 45/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VẠN NINH, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 45/2023/HS-ST NGÀY 01/11/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 01 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa, Tòa án nhân dân huyện Vạn Ninh đã mở phiên tòa xét xử vụ án hình sự, thụ lý 41/2023/HSST ngày 05 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 43/2023/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2023, đối với:

1. Bị cáo Lê Nhật L, sinh năm 1995, tại tỉnh Khánh Hòa; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn P, xã V, huyện V, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Thợ cơ khí; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: Công giáo; con ông Lê Văn T, sinh năm 1974 và bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1972; có vợ là Võ Thị T; tiền án; tiền sự: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

2. Bị cáo Trần Đại N, sinh năm 1995, tại tỉnh Khánh Hòa; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn C, xã X, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Thợ cơ khí; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; tôn giáo: không; con ông Trần Tuấn Mão, sinh năm 1959 và bà Đỗ Thị Mận, sinh năm 1958; có vợ là chị Trần Nữ Huỳnh Giao; có một con sinh năm 2018; tiền sự, tiền án: không; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Lê Văn Th - sinh năm 1982; Địa chỉ: Thôn C, xã X, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà; có mặt.

2. Anh Lê Văn T - sinh năm 1978; Địa chỉ: Thôn C, xã X, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà; có mặt.

3. Anh Trần Thanh N - sinh năm 1980; Địa chỉ: Thôn C, xã X, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hoà; vắng mặt.

4. Chị Hoàng Hồ Thủy T - sinh năm 1995; Địa chỉ: Đường 8A, KĐT P, phường P, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Nhật L và Trần Đại N là bạn và cùng làm nghề cơ khí tại huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa.

Đầu năm 2020, L đặt mua 01 khẩu súng săn và được tặng 50 viên đạn qua phần mềm Youtobe trên điện thoại di động (không xác định người bán) với giá 5.000.000 đồng để bắn thú rừng. Sau khi nhận hàng bằng các L kiện, L tiến hành lắp ráp hoàn thiện 01 khẩu súng săn dài 95cm, báng súng bằng gỗ màu vàng, thân súng bằng kim loại, súng có gắn đèn pin (Wasing WRL 403) và ống nhòm (Bushell 3 – 9 X04E). L định giao khẩu súng và đạn cho anh Lê Văn Th (Sinh năm: 1982) trú tại thôn C, xã X, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa nhưng anh Th từ chối vì không biết sử dụng. L để súng lại tại rẫy của Th khoảng 02 tháng, sau đó L đem súng đến rẫy của ông Lê Văn T (là chú ruột của L) trú tại thôn C, xã X, huyện Vạn Ninh với mục đích tiện bắn chim với N và cất giấu súng tại đây. Từ năm 2020 đến năm 2022 L đã dùng hết 50 viên đạn thể thao để bắn chim. Đến giữa năm 2022, L lên mạng xã hội Youtube tiếp tục đặt mua 50 viên đạn (của người không xác định nhân thân lai lịch) với giá 900.000 đồng, L sử dụng hết 5 – 6 viên đạn, số đạn còn lại L vứt bỏ tại khu vực bờ biển Đèo Cả xã Đại Lãnh, huyện Vạn Ninh. Sau khi sử dụng, L bỏ súng vào bao (loại bao đựng lúa) cất giấu tại bàn đá dưới gốc dừa gần cánh cửa nhà tại rẫy của ông Lê Văn T.

Năm 2021, Trần Đại N mua 01 khẩu súng hơi dạng PCP và 01 hộp đạn chì của đối tượng (không xác định nhân thân lai lịch) để bắn chim cùng với L tại khu vực xã X, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Đến tháng 11/2022, N cất khẩu súng và hộp đạn chì đựng trong túi vải gửi cho anh Trần Thanh N (Sinh năm 1980) trú tại xã X, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa cất giữ.

3 Khoảng tháng 10 năm 2022, Trần Đại N sử dụng mạng xã hội Youtobe đặt mua 01 hộp đạn thể thao khoảng 50 viên với giá 800.000 đồng của đối tượng (chưa xác định nhân thân lai lịch) với mục đích mượn súng săn của L để sử dụng. N lấy lý do tìm hiểu cơ chế hoạt động để mượn súng của L hai lần và được L đồng ý, chỉ nơi cất giấu cho N. Sau khi lấy súng của L, N dùng kìm bẻ đầu đạn thể thao đổ hết thuốc ra và lắp đạn vào súng để không phát ra tiếng nổ lớn khi bắn. Sau khi dùng xong, N bỏ vào bao tải và cất lại vào chỗ cũ L hướng dẫn, số đạn còn lại N vứt bỏ tại khu vực biển thuộc xã Vạn Thọ, huyện Vạn Ninh.

Do L và N có liên quan đến giao dịch chuyển tiền đến đối tượng Bùi Đức Hoàng đang bị Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Bình Dương khởi tố, điều tra. Ngày 10/01/2023, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Bình Dương khám xét và thu giữ khẩu súng săn của L và súng PCP của N. Sau đó bàn giao cho Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa xử lý.

Tại bản kết luận giám định số 974/KL-KTHS ngày 31/01/2023 của Phân Viện khoa học hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh Bộ Công an kết luận: Khẩu súng gửi giám định dài 95cm, báng súng bằng gỗ màu vàng, thân súng bằng kim loại, súng có gắn đèn pin (Wasing WRL 403) và ống nhòm (Bushell 3 – 9 X04E) là vũ khí chế tạo thủ công có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng, thuộc nhóm vũ khí quân dụng.

Tại bản kết luận giám định số 262/KL-KTHS ngày 16/6/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận: Khẩu súng PCP trên thân súng có chữ “AIRFORCE airguns R0001 Madein USA” gửi giám định là súng bắn bằng khí nén, cỡ nòng 5,5 mm có tính năng tác dụng tương tự súng săn, thuộc nhóm súng săn; không phải súng quân dụng; không có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng và không có bộ phận nào là vũ khí quân dụng. Hộp đạn gửi giám định là đạn chì hình nấm cỡ 5,5 mm sử dụng được cho khẩu súng ở trên; không phải đạn quân dụng và không có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng.

Quá trình điều tra, Lê Nhật L, Trần Đại N đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự.

Vật chứng vụ án:

- 01 (một) khẩu súng săn dài 95cm, báng súng bằng gỗ màu vàng, thân súng bằng kim loại, có gắn đèn pin và ống nhòm.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Google Pixel màu trắng gắn thẻ sim số: 0868891X.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax màu xanh, gắn thẻ sim số: 0917309X.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Redmi màu xanh.

4 - 01 (một) thẻ ngân hàng Agribank số: 9704052697827500, chủ thẻ tên: TRAN DAI NHAN.

- 01 (một) thẻ ngân hàng Nam Á số: 9704280065223099, chủ thẻ tên: TRAN DAI NHAN.

Đối với số đạn mà Lê Nhật L và Trần Đại N vứt bỏ tại khu vực xã Đại Lãnh và xã Vạn Thọ huyện Vạn Ninh, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa đã tiến hành xác định hiện trường để truy tìm nhưng không thu giữ được.

Tại bản Cáo trạng số 106/CT-VKSNT ngày 04 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa đã truy tố bị cáo Lê Nhật L và Trần Đại N về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vạn Ninh thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên nội dung đã truy tố và nhận định: Các bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội; các bị cáo có nhân thân tốt; chưa có tiền án, tiền sự, hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình; về động cơ phạm tội tàng trữ súng với mục đích xua đuổi thú rừng. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 304, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Lê Nhật L và Trần Đại N mức án 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”, nhưng cho hưởng án treo, đề nghị áp dụng thời gian thử thách với các bị cáo từ hai năm đến 02 năm 06 tháng.

Về xử lý vật chứng: Giao khẩu súng chiều dài 95cm, báng súng bằng gỗ màu vàng, thân súng bằng kim loại, súng có gắn đèn pin (Wasing WRL 403) và ống nhòm (Bushell 3-9X04E) cho Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Khánh Hòa để xử lý theo Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ; tuyên tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Google Pixel của Trần Đại N và 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax màu xanh của Lê Nhật L; tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) thẻ ngân hàng Agribank số: 9704052697827500, chủ thẻ tên: TRAN DAI NHAN và 01 (một) thẻ ngân hàng Nam Á số: 9704280065223099, chủ thẻ tên: TRAN DAI NHAN; trả lại cho bị cáo Trần Đại N 01 (một) điện thoại di động hiệu Redmi màu xanh; tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

Tại phiên tòa các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, thể hiện sự ăn năn hối cải; trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình, xin Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho hưởng án treo để có cơ hội lao động và chăm lo cho gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Tại phiên tòa người làm chứng anh Trần Thanh N vắng mặt không có lý do; người làm chứng Hoàng Hồ Thủy T có đơn xin vắng mặt. Xét thấy, việc vắng mặt người làm chứng không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 292 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[1.2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên cũng như của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng là hợp pháp, đúng pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa các bị cáo Lê Nhật L và Trần Đại N đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với lời khai của người làm chứng, các Kết luận giám định, bản ảnh hiện trường, biên bản xác định hiện trường; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ; biên bản khám xét và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như qua phần xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên toà có đủ cơ sở kết luận:

Với nhận thức mua khẩu súng săn để đuổi thú rừng tại khu vực vườn dừa của ông Lê Văn Th (là chú của bị cáo L) tại thôn C, xã X, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa. Năm 2020 Lê Nhật L đã đặt mua qua mạng của một đối tượng (không xác định được nhân thân lai lịch) một khẩu súng dài 95cm, báng súng bằng gỗ màu vàng, thân súng bằng kim loại, súng có gắn đèn pin (Wasing WRL 403) và ống nhòm (Bushell 3-9X04E). Sau khi có khẩu súng này, Lê Nhật L và Trần Đại N đã cất dấu tại vực vườn dừa của ông Lê Văn T tại thôn C, xã X, huyện Vạn Ninh. Đến tháng 01 năm 2023 thì bị cơ quan an ninh điều tra phát hiện. Căn cứ vào kết luận giám định số 974/KL-KTHS ngày 31/01/2023 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh - Bộ Công an kết luận, khẩu súng này là vũ khí chế tạo thủ công có tính năng, tác dụng tương tự súng quân dụng.

6 Như vậy, các bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự. Tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật hình sự quy định:

"1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 07 năm.".

Do đó, Cáo trạng số 72/CT-VKS-NT ngày 04 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa truy tố bị cáo Lê Nhật L và Trần Đại N phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng" quy định tại khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự, là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Đánh giá về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận định:

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp chế độ quản lý, sử dụng vũ khí quân dụng của Nhà nước; gây mất an toàn, trật tự tại địa phương. Vì vậy, cần có hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, cũng như phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Tuy nhiên, quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội; nguyên nhân dẫn đến hành vi phạm tội là nhận thức súng mà các bị cáo tàng trữ là súng săn được phép sử dụng, việc mua súng nhằm mục đích xua đuổi thú rừng vào phá vườn rẫy; các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự; phạm tội lần đầu; hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình (có xác nhận của chính quyền địa phương). Vì vậy, các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử nhận thấy không cần thiết cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội. Áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự, xử phạt tù nhưng cho các bị cáo đươc hưởng án treo cũng đủ tác dụng, cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành người lương thiện; cũng như tạo điều kiện cho các bị cáo được tiếp tục lao động nuôi sống gia đình. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Vạn Ninh cho các bị cáo hưởng án treo được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về mức hình phạt, hình phạt áp dụng đối với bị cáo Lê Nhật L phải cao hơn bị cáo Trần Đại N mới phù hợp với tính chất, hành vi phạm tội của các bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng:

[4.1] Một khẩu súng dài 95cm, báng súng bằng gỗ màu vàng, thân súng bằng kim loại, súng có gắn đèn pin (Wasing WRL 403) và ống nhòm (Bushell 3- 7 9X04E) giao cho Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Khánh Hòa tiếp nhận và tiêu huỷ theo Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.

[4.2] Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Google Pixel màu trắng gắn thẻ sim số: 0868891X của bị cáo Trần Đại N và 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax màu xanh, gắn thẻ sim số: 0917309X của bị cáo Lê Nhật L, các vật chứng này liên quan quan đến hành vi phạm tội của các bị cáo nên tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[4.3] Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Redmi màu xanh, bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội, nên cần trả lại cho bị cáo Trần Đại N. Đối với 01 (một) thẻ ngân hàng Agribank số: 9704052697827500, chủ thẻ tên: TRAN DAI NHAN và 01 (một) thẻ ngân hàng Nam Á số: 9704280065223099, chủ thẻ tên: TRAN DAI NHAN, là tài sản của bị cáo Trần Đại N, tại phiên tòa bị cáo trình bày không có nhu cầu sử dụng và đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy. Vì vậy, tịch thu tiêu hủy các thẻ này.

[5] Về một số nội dung khác:

[5.1] Quá trình điều tra vụ án bị cáo Lê Nhật L khai có sử dụng khẩu súng trên để bắn chim tại vườn ông Lê Văn T; bị cáo Trần Đại N có mượn súng của L để bắn đạn không có đầu đạn và thuốc nổ để tìm hiểu cơ chế hoạt động. Nội dung này, quá trình điều tra, truy tố Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đã điều tra làm rõ nhưng không thu được đạn, vỏ đạn, đầu đạn; ngoài lời khai duy nhất của bị cáo thì không có chứng cứ khác để làm căn xác định lời khai của bị cáo là có căn cứ. Tại phiên tòa, các bị cáo cũng khai không ai chứng kiến các bị cáo sử dụng súng. Căn cứ nguyên tắc suy đoán vô tội quy định tại Điều 13 Bộ luật tố tụng Hình sự và căn cứ vào quy định lời khai của bị can, bị cáo tại Điều 98 của Bộ luật tố tụng hình sự, cơ quan tiến hành tố tụng không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo L và N về tội “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”.

[5.2] Đối với hành vi trữ khẩu súng PCP và hộp đạn chì của Trần Đại N được giám định không phải vũ khí quân dụng và không phải đạn quân dụng; không có tính năng tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng. Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa đã bàn giao cho Phòng Cảnh sát Quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Khánh Hòa để xử phạt vi phạm hành chính, nên Hội đồng xét xử không xét.

[5.3] Đối ông Lê Văn Th và ông Lê Văn T. Ông Th, ông T tại phiên tòa xác định, không biết rõ khẩu súng L mua có hình dạng, kích thước như thế nào, không biết nơi L, N cất giữ, không nhìn thấy L, N sử dụng súng. Do đó, không có căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông Th và ông T với vai trò đồng phạm hoặc không tố giác tội phạm.

[5.4] Kiến nghị Cơ quan điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa tiếp tục điều tra, xác minh đối tượng bán súng cho bị cáo L để xử lý theo quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

1.1. Căn cứ khoản 1 Điều 304, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lê Nhật L 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng, tính từ ngày xét xử sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân Vạn Phú, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

1.2. Căn cứ khoản 1 Điều 304, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trần Đại N 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”. Thời gian thử thách 02 (hai) năm 04 (bốn) tháng, tính từ ngày xét xử sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân X, huyện Vạn Ninh, tỉnh Khánh Hòa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

2.1. Giao số vật chứng là: Một khẩu súng dài 95cm, báng súng bằng gỗ màu vàng, thân súng bằng kim loại, súng có gắn đèn pin (Wasing WRL 403) và ống 9 nhòm (Bushell 3-9X04E) cho Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh Khánh Hòa tiếp nhận và tiêu huỷ theo Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ.

2.2. Tịch thu sung ngân sách nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Google Pixel màu trắng gắn thẻ sim số: 0868891X của bị cáo Trần Đại N và 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 12 Promax màu xanh, gắn thẻ sim số: 0917309X của bị cáo Lê Nhật L.

2.3. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) thẻ ngân hàng Agribank số: 9704052697827500, chủ thẻ tên: TRAN DAI NHAN và 01 (một) thẻ ngân hàng Nam Á số: 9704280065223099, chủ thẻ tên: TRAN DAI NHAN.

2.4. Trả lại cho bị cáo Trần Đại N 01 (một) điện thoại di động hiệu Redmi màu xanh.

Vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 06 tháng 7 năm 2023 giữa Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Khánh Hoà với Chi cục thi hành án dân sự tỉnh Khánh Hoà.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 45/2023/HS-ST

Số hiệu:45/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vạn Ninh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về