TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 198/2023/HS-PT NGÀY 21/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG
Ngày 21 tháng 12 năm 2023, tại Hội trường Tổ 6, Phường 2, thành phố Bảo Lộc, Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 251/2023/TLPT-HS ngày 07/11/2023 đối với bị cáo Nguyễn Trần S do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 144/2023/HS-ST ngày 29/9/2023 của Toà án nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng.
* Bị cáo kháng cáo:
Họ và tên: Nguyễn Trần S (tên gọi khác: S Tỷ); sinh năm 1988; nơi sinh: Lâm Đồng; nơi đăng ký thường trú và cư trú: Số 345/41 đường TP, phường Lộc S, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật; con ông Nguyễn T, sinh năm 1960 và bà Trần Thị L, sinh năm 1965; trú tại phường Lộc S, thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không.
Tiền án: Bị cáo có 03 tiền án.
+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 163/2007/HSST, ngày 27/11/2007 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 27 tháng tù giam về các tội: “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích.
+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 72/2010/HSST, ngày 20/8/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 24 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, chưa được xóa án tích.
+ Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 95/2013/HSST, ngày 25/9/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng xử phạt 10 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, chưa được xóa án tích.
Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 15 giờ 20 phút ngày 06/02/2023, trong khi làm nhiệm vụ tuần tra đảm bảo an ninh trật tự tại khu vực Thành ủy Bảo Lộc, Tổ công tác của Công an phường 1, thành phố Bảo Lộc nghe tiếng tri hô của chị Nguyễn Thị Phương Uyên, sinh năm 2004, trú tại thôn Hà Phú, xã Quốc Oai, huyện Đạ Tẻh, tỉnh Lâm Đồng, về việc em gái của chị Uyên tên là Nguyễn Nhật Phương T, sinh năm 2008, trú tại số: 183C/15D đường Nguyễn Văn Cừ, Phường Lộc Phát, thành phố Bảo Lộc, đang bị một thanh niên chở đi trên xe ô tô, biển số 49A-505.xx; vì vậy Tổ công tác đã truy đuổi và ra hiệu lệnh dừng xe để kiểm tra. Qúa trình kiểm tra xác định, người lái chiếc xe trên là Nguyễn Trần S đang chở cháu Nguyễn Nhật Phương T đi cùng. Kiểm tra trong giỏ xách mà bị cáo S mang trên người đã phát hiện 01 khẩu súng và 05 viên đạn; kiểm tra trên xe ô tô đã phát hiện 02 viên đạn để trong túi phía sau ghế bên phụ của xe. Vì vậy, Tổ công tác đã lập biên bản vi phạm và chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quan điều Công an thành phố Bảo Lộc giải quyết.
Sau khi thụ lý tin báo tội phạm, Cơ quan điều Công an thành phố Bảo Lộc đã ra quyết định trưng cầu giám định tang vật. Tại Kết luận giám định số 199/KL-KTHS ngày 24/3/2023, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng kết luận: Khẩu súng ngắn kích thước tổng thể 12cm x 15cm gửi giám định là súng ZORAKI MOD 914, không phải là vũ khí quân dụng (là súng bắn đạn cao su cỡ 09mm thuộc công cụ hỗ trợ); 05 vật kim loại hình trụ tròn dạng viên đạn, mỗi vật mặt ngoài đáy ký hiệu “YAS GLD PAK 9mm” gửi giám định không phải là đạn sử dụng cho vũ khí quân dụng (là đạn cao su cỡ 09 x 22mm thuộc công cụ hỗ trợ); 02 vật kim loại hình trụ tròn dạng viên đạn, một vật mặt ngoài đáy ký hiệu “S&B 12 9 mmM”, vật còn lại mặt ngoài đáy ký hiệu “THAIARSM 9mm” gửi giám định là đạn cỡ đạn 09 x 18mm, thuộc vũ khí quân dụng. Hai viên đạn này không sử dụng để bắn được cho khẩu súng ZORAKI MOD 914 gửi giám định kèm theo.
Quá tình điều tra xác định như sau: Vào cuối tháng 12/2022, Nguyễn Trần S đi đến phòng trọ của Cao Xuân H, sinh năm 1997; trú tại số 107 đường Bùi Thị Xuân, Phường 1, thành phố Bảo Lộc để đòi tiền S đã cho H vay trước đó. Biết H có một khẩu súng bắn đạn cao su nên S hỏi mượn thì H đồng ý. H đưa cho S 01 khẩu súng bắn đạn cao su và 06 viên đạn cao su (đã được lắp vào hộp tiếp đạn). Thấy súng không có túi đựng nên S hỏi mượn H một chiếc túi thì H mở hộc bàn salon lấy ra một túi xách màu đen, kích thước 10cm x 30cm đưa cho S. S cầm chiếc túi bỏ khẩu súng vào trong rồi mang về phòng trọ do S thuê tại số 171 đường Nguyễn Tuân, phường Lộc Tiến, thành phố Bảo Lộc. Tại đây, S lấy khẩu súng ra coi thì phát hiện trong túi xách còn có 02 viên đạn quân dụng bằng kim loại (có vỏ đạn, đầu đạn bằng đồng). S lấy 02 viên đạn trên lắp thử vào hộp tiếp đạn của khẩu súng bắn đạn cao su nhưng không được, do 02 viên đạn quân dụng dài và to hơn. Sau đó, S bỏ 02 viên đạn quân dụng vào túi phía sau ghế bên phụ của xe ô tô biển số 49A- 505.xx.
Trong thời gian mượn được khẩu súng, vào ngày 05/02/2023 S nhận được cuộc gọi từ Nguyễn Trần Thảo V (là bạn gái S) báo cho S biết V đang bị nhóm của Nguyễn Nhật Phương T đe dọa đánh tại khu vực đồi Gió, phường B’Lao, thành phố Bảo Lộc. Nghe xong S cầm khẩu súng bắn đạn cao su đi đến nơi thì thấy hai bên đang chửi bới đe dọa đánh nhau, vì vậy S cầm khẩu súng bắn chỉ thiên một phát để đe dọa hai nhóm thanh niên.
Về vật chứng: Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã chuyển giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lâm Đồng quản lý 02 viên đạn quân dụng cỡ 09 x18mm. Đối với 01 khẩu súng bắn đạn cao su và 03 viên đạn đạn cao su, vào ngày 25/9/2023 Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng đã ra quyết định tịch thu tang vật vi phạm.
Tại bản Cáo trạng số 28/CT-VKSLD-P1, ngày 07 tháng 9 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đã truy tố bị cáo Nguyễn Trần S về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo điểm h khoản 2 Điều 304 Bộ luật hình sự 2015.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 144/2023/HS-ST ngày 29/9/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Bảo Lộc đã xử;
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trần S phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.
Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 304, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Trần S 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt để thi hành án.
Ngoài ra, bản án còn xử lý vật chứng, tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Ngày 02/10/2023, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không thắc mắc, khiếu nại nội dung bản án sơ thẩm, khai nhận hành vi như bản án sơ thẩm đã xét xử, chỉ cho rằng mức án cấp sơ thẩm xét xử là quá nặng vì bị cáo chỉ tàng trữ 02 viên đạn, không biết rõ 02 viên đạn này có còn sử dụng được không mà bị xử phạt 05 năm tù, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Cơ quan tiến hành tố tụng tại giai đoạn sơ thẩm đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Đơn kháng cáo của bị cáo đúng về hình thức, nội dung, trong hạn luật định nên kháng cáo của bị cáo là hợp lệ, nên đủ cơ sở để Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[3] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi như bản án sơ thẩm quy kết. Xét lời khai nhận tội của bị cáo thống nhất với lời khai của người làm chứng có trong hồ sơ, biên bản vụ việc, Kết luận giám định, phù hợp với tất cả các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Bản thân bị cáo đang có 03 tiền án, vừa chấp hành án phạt tù xong vào tháng 01/2022; vào cuối tháng 12/2022, Nguyễn Trần S đi đến phòng trọ của Cao Xuân H, tại số 107 đường Bùi Thị Xuân, Phường 1, thành phố Bảo Lộc mượn của H 01 khẩu súng bắn đạn cao su và 06 viên đạn cao su. Thấy súng không có túi đựng nên S mượn của H 01 chiếc túi màu đen, kích thước 10cm x 30cm bỏ khẩu súng vào trong mang về. Tại phòng trọ của mình S mở chiếc túi ra xem thì phát hiện trong túi còn có 02 viên đạn quân dụng. S lấy 02 viên đạn lắp thử vào hộp tiếp đạn của khẩu súng bắn đạn cao su nhưng không được, vì vậy S bỏ 02 viên đạn trên vào túi phía sau ghế bên phụ của xe ô tô biển số 49A-505.xx. Vào ngày 06/02/2023, S mang khẩu súng bắn đạn cao su và 02 viên đạn nói trên đi trên đường thì bị Tổ công tác Công an Phường 1, thành phố Bảo Lộc phát hiện thu giữ.
Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo Nguyễn Trần S phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 304 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Xét kháng cáo của bị cáo thấy rằng; Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để xử phạt bị cáo mức án 05 năm tù, mức khởi điểm của khung hình phạt là thỏa đáng. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới, mức án cấp sơ thẩm tuyên phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo, đủ tác dụng giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung. Do vậy, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Trần S, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 304; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Trần S 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt để thi hành án.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Trần S phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 198/2023/HS-PT
Số hiệu: | 198/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | đang cập nhật |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về