TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 90/2023/HS-ST NGÀY 26/07/2023 VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN VÀ TÀNG TRỮ, SỬ DỤNG TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG
Ngày 26 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai tiến hành xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 125/2023/TLST-HS ngày 15/6/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 116/2023/QĐXXST- HS ngày 05/7/2023 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lê Huy D, sinh năm 1988 tại tỉnh Thanh Hóa. (có mặt) CCCD số : 038088004046, Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội cấp ngày 16/8/2021.
Nơi đăng ký thường trú: Tổ 18A, khu 3, ấp 7, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
Nghề nghiệp: Kinh doanh đồ gỗ; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh;
Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Cha Lê Huy R - sinh năm 1941 (đa chết), mẹ Hoàng Thị Ấ - sinh năm 1952; Gia đình bị cáo có 04 anh chị em, bị cáo là con thư tư; Vợ là Nguyễn Thị S - sinh năm 1989, bị cáo co 03 con (con lơn nhất sinh năm 2014, nho nhất sinh năm 2022).
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo bị bắt khẩn cấp từ ngày 11/9/2022, chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số 363/LTG-CSHS-Đ4 ngày 13/9/2022 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Nai.
Người bào chữa cho bị cáo theo quy định: Luật sư Trần Thị Thanh Tr - Công ty Luật X X, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai.
- Bị hại: Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (Ngân hàng Vietcombank).
Người đại diện theo ủy quyền (Giấy ủy quyền số 42/UQ-BHO ngày 09-9- 2022):
1. Ông Võ Xuân N, chức vụ: Trưởng phòng HCNS - Ngân hàng Vietcombank. (có mặt) 2. Ông Nguyễn Trung K, chức vụ: Trưởng phòng Ngân quỹ - Ngân hàng Vietcombank. (có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Trần Thị Ngọc Y, sinh năm 1964 (vắng mặt); nơi cư trú: Tổ 11, Khu phố Long Đức 3, phường T, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
2. Ông Phạm Văn Th, sinh năm 1975 (vắng mặt); địa chỉ: Khu phố L, phường P, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
3. Ông Nguyễn Tiến C, sinh năm 1991 (có mặt); địa chỉ: Tổ 4, Khu phố 2, phường N, thị xã U, tỉnh Bình Dương.
4. Ông Vũ Tất Th, sinh năm 1988 (vắng mặt); địa chỉ: Tổ 19, Khu 3, Ấp 7, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
5. Ông Trịnh Văn D, sinh năm 1987 (có mặt); địa chỉ: Khu phố L, phường P, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
6. Ông Phạm Xuân T, sinh năm 1982 (có mặt); địa chỉ: Khu phố L, phường P, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
7. Ông Hồ Văn Cư, sinh năm 2001 (có mặt); địa chỉ: Tổ 18, Khu 3, Ấp 7, xã An Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai.
8. Ông Hồ Văn Đ, sinh năm 1985 (vắng mặt); địa chỉ: Ấp 7, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
9. Ông Hà Tiến L, sinh năm 1983 (vắng mặt); địa chỉ: Khu 4, xã L, huyện H, tỉnh Phú Thọ.
10. Bà Nguyễn Thị S, sinh năm 1989 (có mặt); địa chỉ: Tổ 17, Khu 3, Ấp 7, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
11. Ông Nguyễn Thế B, sinh năm 1966 (vắng mặt); địa chỉ: 348, Tổ 6, Khu phố L, phường P, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
12. Ông Lê Văn C, sinh năm 1985 (có mặt); địa chỉ: Tổ 9, Khu phố L, phường P, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
- Người làm chứng:
1. Ông Nguyễn Phương N, sinh năm 1987 (vắng mặt). Địa chỉ: D8, Tổ 8C, Khu phố 5, phường B, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
2. Ông Lương Minh H, sinh năm 1981 (có mặt). Địa chỉ: Tổ 3, Khu phố B, phường P, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
3. Ông Phạm Xuân Kh, sinh năm 1970 (vắng mặt); địa chỉ: 143 Trương Định, Tổ 21, Khu phố 2, phường M, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
4. Ông Bùi Phú H, sinh năm 1976 (vắng mặt); địa chỉ: Tổ 11A, Khu phố L, phường P, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
5. Ông Nguyễn Duy Th, sinh năm 1969 (vắng mặt); địa chỉ: Tổ 30, khu phố Vườn Dừa, phường T, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
6. Ông Lê Văn B, sinh năm 1965 (có mặt); địa chỉ: Khu phố L, phường P, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
7. Ông Trương Phi H, sinh năm 1998 (vắng mặt); địa chỉ: Khu 4, Ấp 8, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai.
8. Ông Vũ Anh T, sinh năm 1974 (vắng mặt); địa chỉ: P101, Khu Dân cư Phước Thái, khu phố L, phường P, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Nội dung chính của vụ án:
Lê Huy D, sinh năm: 1988, nơi thường trú: Tổ 18A, khu 3, ấp 7, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai làm nghề kinh doanh đồ gỗ. Do thua lỗ trong việc kinh doanh, nên D vay mượn tiền của nhiều người quen và vay tiền qua mạng internet (App) dẫn đến không có khả năng trả nợ.
Để có tiền trả nợ D sử dụng điện thoại di động của D lên mạng tìm mua 01 khẩu súng bắn đạn cao su và 06 viên đạn cao su với giá 20.000.000 đồng của 01 người đàn ông (không rõ lai lịch) và tìm mua một số công cụ phương tiện khác phục vụ cho việc đe dọa nhân viên ngân hàng để cướp tài sản.
Khoảng 12h 00 ngày 08/9/2022, D uống hết 02 lon bia Tiger để lấy tinh thần. Để che giấu hành vi, D mặc quần áo màu đen, đội mũ bảo hiểm xe máy và đeo khẩu trang che mặt, bỏ khẩu súng ngắn có 06 viên đạn, tua vít và túi ni lon màu đen vào trong cốp xe mô tô biển số 23D1-034.xx (biển số đã được D xịt sơn đen che lại) điều khiển chạy đến khu tái định cư xã D, huyện B, tỉnh Đồng Nai. Tại đây, D sử dụng tua vít tháo ốc gắn bửng chắn bùn của xe mô tô ra cất giấu vào bụi cỏ cùng 01 đôi dép tông, mũ bảo hiểm xe mô tô. Sau đó D điều khiển xe chạy lòng vòng trong các đường hẻm ra đường Võ Nguyên Giáp về hướng cổng 11 thuộc khu phố Vườn Dừa, phường T, thành phố H, tỉnh Đồng Nai rồi chạy ra đường Quốc lộ 51 về đến đoạn đường đối diện cổng khu công nghiệp Tam Phước thì dừng xe bên lề đường, D mở cốp xe mô tô lấy khẩu súng có 06 viên đạn bên trong bỏ vào túi áo khoác đen đang mặc rồi đi thẳng vào trong Ngân hàng Vietcombank, chi nhánh H - Phòng giao dịch P ngồi xuống ghế quan sát được khoảng 02 phút thì D đứng dậy rút khẩu súng ra đe dọa bắn 02 phát súng lên trần nhà uy hiếp nhân viên ngân hàng đang làm việc, một số người dân đến giao dịch thấy vậy sợ hãi bỏ chạy ra ngoài. Lúc này anh Nguyễn Phương N, sinh năm: 1987, là cán bộ thu ngân của Ngân hàng Vietcombank, chi nhánh H - Phòng giao dịch P đang làm việc tại quầy số 5 hoảng sợ và ngồi xuống dưới nền nhà thì D đi đến nói “tiền, tiền, lấy tiền ra”, anh N sợ bị bắn nên đã mở két sắt đựng tiền lấy ra 03 (ba) cọc tiền mệnh giá 100 nghìn, 200 nghìn đồng và một số tiền gồm nhiều mệnh giá bỏ lên bàn giao dịch. D lấy hết số tiền này bỏ vào trong túi ni lon màu đen rồi cầm tiền bỏ chạy ra ngoài đường Quốc lộ 51 lấy xe mô tô nổ máy điều khiển chạy về hướng huyện T, tỉnh Đồng Nai. Quá trình điều khiển xe thì D treo túi ni lon đựng tiền ở baga xe, đến đoạn đường hẻm thuộc xã L, huyện T do đường xóc nên túi bị rách dẫn đến một số tiền không được buộc dây thun rơi xuống đường (không rõ cụ thể số tiền bị rơi), D không dừng xe lại để nhặt tiền mà tiếp tục điều khiển xe chạy về địa điểm cất giấu bửng xe lúc ban đầu tại khu tái định cư xã Giang Điền. Tại đây D sử dụng tua vít gắn lại bửng xe, cởi bỏ áo khoác và quần jean dài đang mặc ra cất giấu vào bụi cây, còn khẩu súng thì D cất giấu dưới gốc cây tại khu vực xã V, huyện B, tỉnh Đồng Nai, còn tiền D bỏ vào trong cốp xe chạy về cất giấu trong ngăn kéo bàn tại xưởng gỗ của mình tại ấp 7, xã P, huyện T, tỉnh Đồng Nai. Số tiền D cướp được của Ngân hàng Vietcombank, chi nhánh H - Phòng giao dịch P là 925.000.000 đồng (chín trăm hai mươi lăm triệu đồng). Cụ thể số tiền này D sử dụng như sau:
Bị cáo D đưa cho vợ tên Nguyễn Thị S 30.000.000 đồng, cất giấu tại xưởng gỗ 80.000.000 đồng, trả cho Trịnh Văn D 20.000.000 đồng, Nguyễn Duy Ch 50.000.000 đồng, Phạm Văn Th 30.000.000 đồng, Nguyễn Thế B 12.000.000 đồng, Nguyễn Tiến C 144.000.000 đồng, Hồ Văn Định 4.000.000 đồng, gửi xe ô tô về quê Thanh Hóa 445.000.000 đồng, tiền rơi ngoài đường người dân nhặt được nộp lại 21.200.000 đồng, thu giữ trong người bị cáo D 6.600.000 đồng.
Cơ quan CSĐT (PC02) Công an tỉnh Đồng Nai đã thu giữ được tổng số tiền 842.800.000đ (tám trăm bốn mươi hai triệu đồng), số tiền còn lại 82.200.000đ (tám mươi hai triệu hai trăm nghìn) bị cáo D trả nợ qua app vay tiền nên Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đồng Nai chưa thu hồi được.
Đến ngày 10/9/2022, bị cáo Lê Huy D bị Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đồng Nai bắt giữ, cùng tang vật liên quan đến hành vi phạm tội.
Quá trình điều tra bị can Lê Huy D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung nêu trên.
- Tại biên bản khám nghiệm hiện trường vào lúc 16 giờ ngày 08/9/2022 của Công an tỉnh Đồng Nai xác định: Nơi xảy ra vụ án Ngân hàng Vietcombank, chi nhánh H - Phòng giao dịch P thuộc phường P, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.
- Tại biên bản khám nghiệm hiện trường vào lúc 11 giờ 20 phút ngày 10/9/2022 của Công an tỉnh Đồng Nai xác định: Nơi bị cáo Lê Huy D chuẩn bị công cụ, phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội là các lô đất trống xung quanh đường hẻm cụt thuộc ấp 4, xã V, huyện B, tỉnh Đồng Nai.
- Tại Bản kết luận giám định về vũ khí số 5965/KL-KTHS ngày 24/11/2022 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh thuộc Bộ Công an kết luận về khẩu súng và đạn mà bị cáo Lê Huy D đã sử dụng để gây án như sau:
1/ Khẩu súng gửi giám định là vũ khí quân dụng, thuộc loại súng chế tạo thủ công bắn đạn nổ. Sử dụng khẩu súng này bắn với đạn phù hợp trúng cơ thể người có thể gây thương vong.
2/ 04 (bốn) viên đạn gửi giám định là đạn cao su cỡ (9x22)mm, thuộc đạn công cụ hỗ trợ; sử dụng được cho khẩu súng nêu trên.
3/ 02 (hai) vỏ đạn gửi giám định được bắn ra từ khẩu súng nêu trên.
- Vât chưng thu giư:
+ 01 (một) quần dài vải màu đen; 01 (một) cục xạc pin dự phòng; 01 (một) tấm nhựa kích thước 19,5cm x 14,5cm; 01 (một) mũ bảo hiểm; 02 (hai) túi ni lon màu đen và màu trắng; 01 (một) bình xịt sơn màu đen; 01 (một) mảnh vải;
07 (bảy) mảnh giấy; 01 (một) khẩu trang vải màu đen trắng; 01 (một) đôi giày vải hiệu NIKE; 01 (một) vỏ dao rọc giấy; 01 (một) thắt lưng da màu đen; 01 (một) áo khoác dài tay màu đen trắng xám; 01 (một) điện thoại di động hiệu samsung Galaxy J7 số sêri: R58JA2EGYDR màu trắng xám; 01 (một) USB; 01 (một) ghế da; 01 (một) áo thun màu đỏ - trắng; 01 (một) đôi dép nhựa hiệu NIKE; 01 (một) nón bảo hiểm; 01 thẻ nhớ trong camera; 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen biển số 23D1-034.xx, số máy: 5C63-50xx, số khung:
RLCS5C630BY502384; 01 (một) khẩu súng bằng kim loại màu đen trắng, có kí hiệu WG 21TH017379 OPEN - S; 04 (bốn) viên đạn màu vàng đồng bằng kim loại, đầu đạn màu đen có kí hiệu 9mm YAS-GLD-PAK; 02 (hai) vỏ đạn bằng kim loại màu vàng đồng, kí hiệu 9mm YAS-GLD-PAK; 01 (một) đầu đạn bằng cao su màu đen đã biến dạng; số tiền 842.800.000 đồng và số tiền 2.000.000 đồng thu giữ của Nguyễn Thị S (vợ bị cáo Lê Huy D); 01 biển số xe mô tô 60L6-68XX.
+ Đối với số tiền 842.800.000 đồng đã thu giữ Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai đã tiến hành trả lại cho Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (Vietcombank), chi nhánh H - Phòng giao dịch P theo quy định.
+ Đối với số tiền 2.000.000 đồng đã thu giữ của chị Nguyễn Thị S (vợ bị cáo Lê Huy D) không liên quan đến vụ án. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai đã trả lại cho chị Nguyễn Thị S theo quy định.
- Về trách nhiệm dân sự: Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (Vietcombank), chi nhánh H - Phòng giao dịch P yêu cầu bị cáo Lê Huy D bồi thường số tiền 82.200.000 đồng.
2. Truy tố: Cáo trạng số: 114/CT-VKS-P2 ngày 29/5/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã truy tố bị cáo Lê Huy D về tội “Cướp tài sản” theo quy định tại khoản 4 Điều 168 và tội “ Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật hình sự.
3. Ý kiến của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo xác định tất cả lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc hay bức cung. Kết luận điều tra cũng như bản cáo trạng truy tố bị cáo ra trước tòa hoàn toàn phù hợp với hành vi của bị cáo đã thực hiện. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
tòa:
4. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên 4.1. Về tội danh, trách nhiệm hình sự, quan điểm truy tố:
Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lê Huy D về tội “Cướp tài sản” và tội “ Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”.
4.2. Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.
4.3. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong suốt quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có tác động đến gia đình nộp tiền khắc phục một phần số tiền phải bồi thường thiệt hại và có cha mẹ là người có công với Cách mạng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại các điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
4.4. Điều luật áp dụng và mức án đề nghị: Áp dụng điểm a khoản 4 Điều 168, khoản 1 Điều 304, điểm s khoản 1 và 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
Đề nghị xử phạt bị cáo Lê Huy D mức án từ 18 (mười tám) đến 19 (mười chín) năm tù về tội “Cướp tài sản” và từ 02 (hai) đến 04 (bốn) năm tù về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”.
4.5. Về trách nhiệm dân sự:
Căn cứ Điều 46, 48 của Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo phải bồi thường số tiền còn lại là 82.200.000 đồng. Tiếp tục tạm giữ số tiền 10.000.000 đồng vợ bị cáo nộp khắc phục hậu quả để đảm bảo thi hành án.
4.6. Về xử lý vật chứng:
Căn cứ Điều 46 và 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị tuyên xử lý vật chứng theo quy định.
4.7. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.
5. Quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo Lê Huy D theo quy định của pháp luật trình bày tại bài bào chữa:
Hành vi của bị cáo theo Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai truy tố, Luật sư không có ý kiến tranh luận.
Hành vi của bị cáo đã vi phạm quy định của pháp luật hình sự, xâm phạm đến khách thể được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, bị cáo đã ăn năn, hối cải, thành thật khai báo, chưa có tiền án, tiền sự và hành vi phạm tội của bị cáo là bộc phát từ sự bức bách nợ nần trong cuộc sống, số tiền bị cáo chiếm đoạt đã được thu hồi gần hết, tác động đến gia đình khắc phục bồi thường một phần hậu quả và bị cáo có cha mẹ là người có công với Cách mạng. Từ trình bày trên đề nghị Hội đồng xét xử công tâm xem xét cho bị cáo mức hình phạt phù hợp với hành vi sai phạm của bị cáo, mang tính giáo dục hơn là hình phạt để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm và sống có ích cho xã hội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử cũng như tại phiên tòa, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự, các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ, quyền được bào chữa và tự bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại gì về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều phù hợp.
[2] Về nội dung:
[2.1] Về hành vi của bị cáo bị truy tố:
Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ đã được thu thập có tại hồ sơ, kết luận giam đinh, biên bản khám nghiệm hiện trường, cùng các chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ trong vụ án, hành vi của bị cáo trong vụ án này được xem xét đánh giá toàn diện trong mối quan hệ với chứng cứ khác để xác định đúng bản chất của vụ án, phù hợp với hành vi của bị cáo thực hiện mà Kết luận điều tra cũng như Cáo trạng đã mô tả.
[2.2] Về tội danh và Điều luật áp dụng:
Khoảng 14 giờ 40 ngày 08/9/2022, bị cáo Lê Huy D đi xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Sirius biển số 23D1-034.xx, mang theo một khẩu súng quân dụng loại Rulo màu đen cùng 06 viên đạn cao su đến Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (Vietcombank), chi nhánh H - Phòng giao dịch P thuộc phường P, thành phố H, tỉnh Đồng Nai nhằm mục đích cướp tài sản. Tại đây, bị cáo sử dụng khẩu súng có đạn sẵn bên trong cầm ở tay trái, hướng nòng súng lên trên trần nhà và nói “cướp, đưa tiền đây” đồng thời bắn hai phát (trong đó có một phát đạn nổ lên trần nhà) uy hiếp nhân viên ngân hàng để cướp số tiền 925.000.000 đồng (chín trăm hai mươi lăm triệu đồng) rồi tẩu thoát, đến ngày 10/9/2022 thì bị bắt giữ cùng tang vật.
Hành vi nêu trên của bị cáo Lê Huy D đã phạm vào tội “Cướp tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 168 và tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại khoản 1 Điều 304 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
[2.3] Đánh giá về tính chất, mức độ, hành vi của bị cáo:
Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là đặc biệt nghiêm trọng, thể hiện sự liều lĩnh, coi thường pháp luật, xâm phạm đến tài sản của người khác, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng xấu đến trật tự an ninh xã hội. Do đó, cần phải áp dụng hình phạt thật nghiêm nhằm mục đích giáo dục và răn đe phòng ngừa tội phạm.
[3] Về hình phạt áp dụng cho bị cáo:
[3.1] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng theo quy định tại Điều 52 của Bộ luật hình sự.
[3.2] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; có tác động đến gia đình khắc phục bồi thường một phần thiệt hại và cha mẹ bị cáo là người có công với Cách mạng (Cha bị cáo được tặng thưởng Huân chương hạng ba vì đã có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; mẹ bị cáo được Bộ Tư lệnh Quân khu 4 cấp Giấy chứng nhận tham gia dân công hỏa tuyến). Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[4] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai, quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo về hành vi phạm tội, tội danh và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được ghi nhận.
[5] Về phần trách nhiệm dân sự: Số tiền bị cáo Lê Huy D cướp của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (Vietcombank), chi nhánh H - Phòng giao dịch P là 925.000.000 đồng. Quá trình điều tra đã thu giữ được 842.800.000 đồng trả lại cho Ngân hàng. Số tiền còn lại là 82.200.000 đồng bị cáo D đem trả nợ vay qua APP không thu hồi được, nên số tiền này được xác định số tiền thiệt hại từ hành vi phạm tội của bị cáo. Vì vậy, cần phải buộc bị cáo phải có trách nhiệm bồi thường số tiền này.
Tiếp tục tạm giữ số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng do vợ của bị cáo là bà Nguyễn Thị S nộp khắc phục hậu quả để đảm bảo thi hành án.
[6] Về xử lý vật chứng:
+ Tịch thu tiêu hủy 01 (một) quần dài vải màu đen; 01 (một) cục xạc pin dự phòng; 01 (một) tấm nhựa kích thước 19,5cm x 14,5cm; 01 (một) mũ bảo hiểm;
02 (hai) túi ni lon màu đen và màu trắng; 01 (một) bình xịt sơn màu đen; 01 (một) mảnh vải; 07 (bảy) mảnh giấy; 01 (một) khẩu trang vải màu đen trắng; 01 (một) đôi giày vải hiệu NIKE; 01 (một) vỏ dao rọc giấy; 01 (một) thắt lưng da màu đen; 01 (một) áo khoác dài tay màu đen trắng xám; 01 (một) áo thun màu đỏ - trắng; 01 (một) đôi dép nhựa hiệu NIKE; 01 (một) nón bảo hiểm; 01 biển số xe mô tô 60L6-68XX và 01 ghế da đã thu giữ.
+ 01 (một) khẩu súng bằng kim loại màu đen trắng, có kí hiệu WG 21TH017379 OPEN - S; 04 (bốn) viên đạn màu vàng đồng bằng kim loại, đầu đạn màu đen có kí hiệu 9mm YAS-GLD-PAK; 02 (hai) vỏ đạn bằng kim loại màu vàng đồng, kí hiệu 9mm YAS-GLD-PAK; 01 (một) đầu đạn bằng cao su màu đen đã biến dạng đã được Cơ quan điều tra chuyển giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đồng Nai quản lý theo quy định.
+ Tịch thu sung công 01 (một) điện thoại di động hiệu samsung Galaxy J7 số sêri: R58JA2EGYDR màu trắng xám là phương tiện thực hiện hành vi phạm tội.
+ Đối với 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen biển số 23D1- 034.XX, số máy: 5C63-50xx, số khung: RLCS5C630BY502384 là phương tiện bị cáo Dũng sử dụng để thực hiện hành vi “Cướp tài sản”. Kết quả xác minh xe mô tô trên do anh Vũ Tất Th về quê nên gửi tại nhà của Lê Huy D và anh Th không biết gì về việc bị cáo D sử dụng xe mô tô của mình để đi cướp Ngân hàng nên tuyên trả lại cho anh Vũ Tất Th theo quy định.
+ Đối với 01 (một) USB và 01 thẻ nhớ trong Camera chứa các Video clip của vụ án, tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án.
[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự (tính trên số tiền phải bồi thường thiệt hại) theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ các Điều 106, 136, 331, 332, 333 của Bộ luật tố tụng hình sự;
điểm a khoản 4 Điều 168, khoản 1 Điều 304, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 46, Điều 48, điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
- Tuyên bố bị cáo Lê Huy D phạm tội “Cướp tài sản” và tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”.
- Xử phạt bị cáo Lê Huy D 18 (mười tám) năm tù về tội “Cướp tài sản” và 02 (hai) năm tù về tội “Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng”.
- Tổng hợp hình phạt của 02 tội, buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 20 (hai mươi) năm tù, Thời hạn tù tính từ ngày 11 tháng 9 năm 2022.
2. Về trách nhiệm dân sự:
- Buộc bị cáo Lê Huy D có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương (Vietcombank), chi nhánh H - Phòng giao dịch P số tiền 82.200.000 (tám mươi hai triệu hai trăm nghìn) đồng.
Tiếp tục tạm giữ số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng do vợ của bị cáo là chị Nguyễn Thị S nộp khắc phục hậu quả để đảm bảo thi hành án (Theo biên lai thu tiền số 0000962 ngày 17/7/2023 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai).
3. Về xử lý vật chứng:
- Tiếp tục lưu hồ sơ 01(một) USB và 01 thẻ nhớ trong Camera chứa các Video clip của vụ án.
- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) quần dài vải màu đen; 01 (một) cục xạc pin dự phòng; 01 (một) tấm nhựa kích thước 19,5cm x 14,5cm; 01 (một) mũ bảo hiểm;
02 (hai) túi ni lon màu đen và màu trắng; 01 (một) bình xịt sơn màu đen; 01 (một) mảnh vải; 07 (bảy) mảnh giấy; 01 (một) khẩu trang vải màu đen trắng; 01 (một) đôi giày vải hiệu NIKE; 01 (một) vỏ dao rọc giấy; 01 (một) thắt lưng da màu đen; 01 (một) áo khoác dài tay màu đen trắng xám; 01 (một) áo thun màu đỏ - trắng; 01 (một) đôi dép nhựa hiệu NIKE; 01 (một) nón bảo hiểm; 01 biển số xe mô tô 60L6-68XX và 01 ghế da.
- Tịch thu sung công 01 (một) điện thoại di động hiệu samsung Galaxy J7 số sêri: R58JA2EGYDR màu trắng xám.
- Trả lại 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha Sirius màu đỏ đen biển số 23D1- 034.XX, số máy: 5C63-50xx, số khung: RLCS5C630BY502384 cho anh Vũ Tất Th theo quy định.
(Các vật chứng xử lý trên theo biên bản về việc giao vật chứng, tài sản ngày 13/6/2023 giữa Cơ quan điều tra PC 02 – Công an tỉnh Đồng Nai và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Đồng Nai)
4. Về án phí: Bị cáo Lê Huy D phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 4.110.000 (bốn triệu một trăm mười nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.
5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (có mặt tại phiên tòa) được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan (vắng mặt tại phiên tòa) được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án
Bản án 90/2023/HS-ST về tội cướp tài sản và tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng
Số hiệu: | 90/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 26/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về