Bản án về tội tàng trữ trái phép vật liệu nổ số 17/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MÙ CANG CHẢI, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 17/2023/HS-ST NGÀY 24/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VẬT LIỆU NỔ

Ngày 24 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Y, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 17/2023/TLST-HS ngày 03 tháng 8 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 17/2023/ QĐXXST - HS ngày 10 tháng 8 năm 2023 đối với bị cáo:

Lờ A, Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 15 tháng 10 năm 1993, tại huyện M, tỉnh Y; Nơi cư trú: Bản C, xã L, huyện M, tỉnh Y; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Mông; giới tính N; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lờ A C, sinh năm 1951 và bà: Phàng Thị C1 - Đã chết; có vợ là Giàng Thị D, sinh năm 1990 và ba con; Tiền án, tiền sự: Không. Tại ngoại tại nơi cư trú, (Có mặt).

- Người chứng kiến: Thào A D1, sinh năm 1975, Nghề nghiệp:Làm ruộng;

Nơi cư trú : Bản C, xã L, huyện M, tỉnh Y. Vắng mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Lương Thị Ngọc P, Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà Nước tỉnh Y. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng đầu tháng 4 năm 2023 trên đường đi làm qua khu vực bản Cồ Dề Sang B, xã L, huyện M, tỉnh Y, Lờ A nhặt được một túi nilon mầu xanh bên trong có 07 (bảy) thỏi thuốc nổ hình trụ màu trắng, 07 (bảy) thỏi thuốc nổ hình trụ màu da cam và 11 (mười một) kíp nổ điện ở lề đường. M biết đó là thuốc nổ và kíp nổ vì trước đây M đã nhìn thấy các công nhân làm đường sử dụng thuốc nổ và kíp nổ để phá đá làm đường. Lờ A M1 đem số thuốc nổ và kíp nổ về nhà tại bản C, xã L, huyện M, tỉnh Y, cất vào trong gầm giường ngủ của vợ chồng M1, không nói cho ai biết việc M1 nhặt được và cất và liệu nổ tại nhà. Mục đích M1 cất giấu vật liệu nổ để sử dụng nổ mìn phá đá khai hoang ruộng sau này.

Ngày 20/4/2023, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Y nhận được tố giác tội phạm (Không có tên) có nội dung: Lờ A trú tại bản Cáng Dông, xã L, huyện M, tỉnh Y cất giấu thuốc mìn tại nhà. Ngày 21/4/2023, Cơ quan An ninh điều tra đã tiến hành gọi hỏi, lấy lời khai, quá trình kiểm tra, xác minh và khám xét khẩn cấp chỗ ở tại bản C, xã L, huyện M, tỉnh Y thu giữ: 01 túi nilon mầu xanh bên trong có 07 (bảy) thỏi hình trụ có vỏ bọc màu trắng và 07 (bảy) thỏi hình trụ có vỏ bọc màu da cam; 01 túi nilon mầu trắng bên trong có 11 (mười một) ống kim loại màu xám, mỗi ống kim loại một đầu được bịt kín, một đầu có gắn dây điện màu đỏ và màu xanh, tại gầm tủ cạnh giường ngủ của vợ chồng Lờ A M2 và Giàng Thị D.

Tại bản Kết luận giám định số: 3034/KL-KTHS ngày 24/4/2023 của V Bộ C2 kết luận;

- 07 (bảy) thỏi hình trụ có vỏ bọc màu trắng và 07 (bẩy) thỏi hình trụ có vỏ bọc màu da cam đều là thuốc nổ công nghiệp nhũ tương, thuộc nhóm vật liệu nổ, thường dùng trong khai khoáng, mở đường...và vẫn còn sử dụng được. Tổng khối lượng số thuốc nổ trên là 2,8kg (hai phẩy tám kilôgam).

- 11 (mười một) ống kim loại màu xám, mỗi ống kim loại một đầu gắn bịt kín, một đầu có gắn dây điện màu đỏ và màu xanh đều là kíp nổ điện vỏ nhôm. Kíp nổ là phụ kiện nổ thuộc nhóm vật liệu nổ, K nổ có tác dụng kích nổ thuốc nổ. Tất cả số kíp trên đều còn sử dụng được.

Toàn bộ số vật chứng là vật liệu nổ nêu trên đều được bảo quản tại Kho K - Phòng Kỹ thuật - Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Y, Về nguồn sốc số thuốc nổ và kíp nổ bị thu giữ, kết quả điều tra, xác minh cho thấy: Công ty TNHH một thành viên C3, địa chỉ: Tổ B, phường Đ, thành phố T, tỉnh Tuyên Quang có sản xuất và bán thuốc nổ nhũ tương có đặc điểm giống như thuốc nổ đã thu được trong vụ án. Tuy nhiên, Công ty không xác định được số thuốc nổ này công ty đã bán cho đơn vị, cơ quan, doanh nghiệp nào. Từ trước đến nay Công ty không tiếp nhận phản hồi nào từ khách hàng về việc bị mất, thất thoát vật liệu nổ. Công ty không sản xuất kíp nổ. Quá trình điều tra, Cơ quan An ninh điều tra không nhận được thông tin nào khác về số vật liệu nổ đã thu giữ nên không có đủ cơ sở để điều tra làm rõ.

Bản cáo trạng số 47/CT-VKS-P1 ngày 02 tháng 8 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Y đã truy tố bị cáo Lờ A M2 về tội "Tàng trữ trái phép vật liệu nổ" theo Khoản 1 Điều 305 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo vẫn giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 305; Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo từ một năm đến một năm sáu tháng tù, không áp dụng hình phạt bổ sung, miễn án phí cho bị cáo. Tịch thu vật chứng theo quy định của pháp luật.

Người bào chữa cho bị cáo có ý kiến: Hành vi phạm tội của bị cáo là rồ ràng, bị cáo bị truy tố về tội "Tàng trữ trái phép vật liệu nổ" theo Khoản 1 Điều 305 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, Bị cáo Lờ A M2 là người dân tộc thiểu số (dân tộc Mông), sinh sống tại địa bàn thuộc vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, trình độ dân trí thấp của huyện M, tỉnh Y. Do đó hiểu biết về xã hội nói chung, kiến thức về pháp luật nói riêng của bị cáo còn nhiều hạn chế, đây cũng là một phần nguyên nhân khiến bị cáo nhất thời vi phạm pháp luật. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, Lờ A luôn thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân. Bị cáo đã chủ động khai nhận toàn bộ hành vi vi phạm của bản thân, cung cấp đầy đủ thông tin về số lượng cũng như chỉ rõ nơi bị cáo cất giấu, tàng trữ vật liệu và phụ kiện nổ, trên cơ sở lời khai nhận của M2, ngay sau đó cơ quan công an đã thu giữ được toàn bộ số thuốc nổ và các kíp nổ tại vị trí Lờ A đã khai báo. Nội dung này chứng tỏ bị cáo đã có những hành vi, lời khai thể hiện sự hợp tác tích cực, có ý nghĩa thiết thực giúp cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm và nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án. Trước khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, Lờ A là người có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, không có tiền án tiền sự, chấp hành tốt chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Trong quá trình sinh sống tại địa phương, bị cáo đã tích cực tham gia, gương mẫu trong các phong trào, hoạt động đoàn thể được chính quyền địa phương tặng thưởng giấy khen; bản thân bị cáo làm được nhiều việc tốt, xung kích trong chiến dịch phòng chống dịch bệnh covid19, đặc biệt bị cáo đã tham gia tích cực giúp các hộ dân bị cô lập, giải phóng đất đá thông đường giao thông, giúp sơ tán người dân ra khỏi vùng nguy hiểm...khắc phục hậu quả thiên tai sau trận lũ ống xảy ra trên địa bàn huyện M vào đầu tháng 8 năm 2023 (được chính quyền địa phương xác nhận). Khối lượng thuốc nổ và phụ kiện nổ bị cáo tàng trữ có khối lượng, số lượng rất nhỏ (2,8kg và 11 kíp nổ), số thuốc và phụ kiện nổ này bị cáo cũng chưa sử dụng, chưa gây hậu quả xấu, do đó hành vi của bị cáo có tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Từ những cơ sở pháp lý đã trình bày ở trên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 305, điểm s, điểm t khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự tuyên phạt Lờ A M2 01 năm tù nhưng cho hưởng án treo, đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền và miễn tiền án phí cho bị cáo. Bị cáo nhất trí với lời bào chữa của Người bào chữa, không bổ sung thêm. Khi nói lời sau cùng, bị cáo tỏ rõ sự ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng đã được thực hiện hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi mình đã thực hiện, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản khám xét, kết luận giám định ... và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện ngày 20/4/2023, tại bản Cáng Dông, xã L, huyện M, tỉnh Y, Lờ A đã tàng trữ 2,8kg (hai phẩy tám kilôgam) thuốc nổ công nghiệp nhũ tương, thuộc nhóm vật liệu nổ, thường dùng trong khai khoáng, mở đường...vẫn còn sử dụng được và 11 (Mười một) kíp nổ điện vỏ nhôm, kíp nổ có tác dụng kích nổ thuốc nổ, là phụ kiện nổ thuộc nhóm vật liệu nổ; Tất cả số kíp trên đều còn sử dụng được. Hành vi nêu trên của bị cáo xâm phạm đến việc quản lý, sử dụng vật liệu nổ của Nhà N1, gây hoang mang cho người dân. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, biết việc tàng trữ vật liệu nổ là nguy hiểm và bị nghiêm cấm, nhưng vẫn thực hiện. Hội đồng xét xử kết luận: Lờ A M2 đã phạm tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ” theo Khoản 1 Điều 305 của Bộ luật hình sự.

[3] Tại phiên tòa, phần tranh tụng sau khi người bào chữa trình bày lời bào chữa, Đại diện Viện kiểm sát nhận thấy việc áp dụng điểm t khoản 1 điều 51 của Bộ luật hình sự cho bị cáo là phù hợp, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự này trong khi lượng hình.

[4] Xét nhân thân Lờ A, là người dân tộc thiểu số, sinh ra và lớn lên ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, nên nhận thức, hiểu biết xã hội và pháp luật có phần hạn chế, bị cáo không có tiền án, tiền sự nên xác định là người có nhân thân tốt, nhất thời phạm tội, do suy nghĩ đơn giản là nhặt được đem về để phá đá khai hoang ruộng chứ không có mục đích nào khác. Tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo, Đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm và nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án. Trong quá trình sinh sống tại địa phương, bị cáo đã tích cực tham gia, gương mẫu trong các phong trào, hoạt động đoàn thể được chính quyền địa phương tặng thưởng giấy khen; bản thân bị cáo làm được nhiều việc tốt, xung kích trong chiến dịch phòng chống dịch bệnh covid19, đặc biệt bị cáo đã tham gia tích cực giúp các hộ dân bị cô lập, giải phóng đất đá thông đường giao thông, giúp sơ tán người dân ra khỏi vùng nguy hiểm...khắc phục hậu quả thiên tai sau trận lũ ống xảy ra trên địa bàn huyện M vào đầu tháng 8 năm 2023 (được chính quyền địa phương xác nhận), Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, t khoản 1 và khoản 2 điều 51 của bộ luật hình sự. [5] Với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 điều 51 của bộ luật hình sự; không có tình tiết tăng nặng; có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng; xét thấy không nhất thiết phải cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội cũng đủ điều kiện cải tạo giáo dục các bị cáo. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng của vụ án:

- 07 (bảy) thỏi hình trụ có vò bọc màu trắng và 07 (bẩy) thỏi hình trụ có vỏ bọc màu da cam đều là thuốc nổ công nghiệp nhũ tương, thuộc nhóm vật liệu nổ.

- 11 (mười một) kíp nổ điện vỏ nhôm.

Toàn bộ số vật chứng là vật liệu nổ nêu trên đã được chuyển đến kho K1B - Phòng Kỹ thuật - Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Y đề xử lý theo quy định của pháp luật.

[7] Về án phí : Bị cáo được miễn án phí sơ thẩm do là người dân tộc thiểu số đang sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn.

[8] Bị cáo được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 305; Điểm s, t Khoản 1 và khoản 2 Điều 51, điều 65 của Bộ luật hình sự.

Tuyên bố bị cáo Lờ A M2 phạm tội" Tàng trữ trái phép vật liệu nổ".

Xử phạt: bị cáo Lờ A M2 01 (một) năm (03) Ba tháng tù, nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã L, huyện M, tỉnh Y giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 92 của Luật thi hành án Hình sự.

Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu 07 (bảy) thỏi hình trụ có vỏ bọc màu trắng, 07 (bẩy) thỏi hình trụ có vỏ bọc màu da cam đều là thuốc nổ công nghiệp nhũ tương, thuộc nhóm vật liệu nổ và 11 (mười một) kíp nổ điện vỏ nhôm, giao Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Y để xử lý theo quy định của pháp luật.

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12; khoản 6 Điều 15 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Miễn toàn bộ án phí sơ thẩm cho bị cáo Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

78
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép vật liệu nổ số 17/2023/HS-ST

Số hiệu:17/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mù Căng Chải - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:24/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về