Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 99/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LẠNG SƠN, TỈNH LẠNG SƠN

BẢN ÁN 99/2021/HS-ST NGÀY 07/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 96/2021/TLST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2021/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2021, đối với bị cáo:

Phạm Thị H (tên gọi khác là Phạm Thị L); sinh ngày 20 tháng 11 năm 1967 tại Lạng Sơn; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số 33, đường N, khối 1, phường Đ, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn; chỗ ở hiện nay: Tổ 5, khối 8, phường Đ, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Hữu T và bà Chu Thị C; chồng tên Lê M, sinh năm 1976 đã ly hôn năm 2007; con: Có 05 con, lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 1998; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân:

Ngày 27/7/1992 bị Công an tỉnh Lạng Sơn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Che giấu người nhập cảnh trái phép, phạt tiền 200.000đ.

Ngày 22/12/1995 bị Tòa án nhân dân thị xã Lạng Sơn (nay là thành phố Lạng Sơn), tỉnh Lạng Sơn xử 18 (mười tám) tháng tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy, tại Bản án số 123/1995/HSST.

Ngày 03/01/2008 bị Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử 02 (hai) năm tù giam về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, tại Bản án số 03/2008/HSST.

Ngày 22/8/2011 bị Tòa án nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn xử 08 (tám) năm tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy, tại Bản án số 120/2011/HSST (đã chấp hành xong hình phạt tù và trở về địa phương từ ngày 23/5/2017).

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 29/4/2021 đến nay, có mặt.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Chị Nguyễn Thị Vân L, sinh năm 1989, địa chỉ: Ngõ 162, đường M, khu tái định cư C, phường V, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt và có đơn xin xử vắng mặt.

2. Anh Hoàng Văn S, sinh năm 1980, địa chỉ: thôn P, xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt và có đơn xin xử vắng mặt.

3. Bà Trần Thị Kim H, sinh năm 1960, địa chỉ: Số 46, đường N, phường Đ, thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn. Vắng mặt và có đơn xin xử vắng mặt.

Người chứng kiến: Anh Nguyễn Văn Lập, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 15 giờ 15 phút, ngày 29/4/2021 tại khu vực trước cửa số nhà 55 đường L, phường V, thành phố Lạng Sơn, Công an thành phố Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang Phạm Thị H đang thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trên tay trái của Phạm Thị H 01 gói giấy màu nâu kích thước 3 x 4cm, bên trong có 02 gói giấy màu trắng bọc ngoài bằng túi nilon màu hồng và băng dính màu đen có cùng kích thước 1cm x 2 cm chứa chất bột màu trắng và thu giữ thêm 01 điện thoại di động Nokia màu đen, 240.000đ, 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA Lead màu trắng bạc, biển kiểm soát 12K7-3229, số khung: RLHJF 24029Y121958, số máy: JF24E - 0151262.

Tại bản kết luận giám định số 167/KL-PC09 ngày 30/4/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Chất bột màu trắng đã thu giữ của Phạm Thị H gửi giám định là chất ma túy Heroine, có tổng khối lượng 0,386gam (đã trừ bì).

Tại bản Cáo trạng số: 99/CT-VKSTP ngày 09 tháng 8 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn, tỉnh Lạng Sơn đã quyết định truy tố bị cáo Phạm Thị H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị H khai nhận: Bản thân có sử dụng chất ma túy Heroine, nên thường mua ma túy về sử dụng. Khoảng 14 giờ ngày 29/4/2021 bị cáo một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu HONDA Lead, biển kiểm soát 12K7 - 3229 từ nhà đến khu vực đầu cầu Đ tìm mua ma túy Heroine về sử dụng. Tại đây, bị cáo gặp và mua 150.000đ ma túy Heroine với một người phụ nữ tên P (bị cáo không biết họ và địa chỉ) mua được 02 gói nhỏ chất ma túy Heroine được gói trong 01 gói giấy màu nâu dạng giấy vệ sinh, bên trong có 02 gói nilon màu hồng, dán ngoài bằng băng dính màu đen. Bị cáo cầm gói ma túy trong bàn tay trái rồi đi tìm nơi sử dụng, khi vừa đi đến trước cửa số nhà 55 đường L, phường V, thành phố Lạng Sơn thì bị công an bắt quả tang.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Thị H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Thị H từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; về hình phạt bổ sung là phạt tiền, do bị cáo không có tài sản riêng, không có thu nhập nên đề nghị không áp dụng;

Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 phong bì đã niêm phong đựng mẫu vật là chất ma túy sau giám định; trả lại cho bị cáo Phạm Thị H 01 điện thoại di động Nokia màu đen và số tiền 240.000đ do không liên quan đến hành vi phạm tội; đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Lead màu trắng bạc, biển kiểm soát 12K7-3229, số khung: RLHJF 24029Y121958, số máy: JF24E - 0151262 bị cáo sử dụng đi mua ma túy ngày 29/4/2021, Cơ quan điều tra đã chuyển cho Đội cảnh sát giao thông Công an thành phố Lạng Sơn tiếp tục xử lý theo quy định, nên không đề nghị xem xét giải quyết trong vụ án này; bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa. Trong lời nói sau cùng, bị cáo thể hiện thái độ ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của bản thân và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, để bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra, truy tố, xét xử vụ án, hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục. Bị cáo đã được tống đạt các văn bản, quyết định tố tụng và thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo đúng trình tự thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự. Do đó hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng đã thực hiện đều có giá trị pháp lý.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Phạm Thị H tại phiên tòa phù hợp với lời khai bị cáo đã khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, lời khai người chứng kiến, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ căn cứ để khẳng định: Ngày 29/4/2021, tại trước cửa số nhà 55 đường L, phường V, thành phố Lạng Sơn, Phạm Thị H đã có hành vi tàng trữ 0,386 gam ma túy Heroine để trong bàn tay trái, bị cáo vừa mua về chưa kịp sử dụng. Với hành vi trên, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Lạng Sơn đối với bị cáo Phạm Thị H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, vì ma túy là loại độc dược gây nghiện, rất có hại đối với sức khỏe con người, gây ảnh hưởng đến kinh tế của mỗi gia đình và cả xã hội và là loại độc dược do Nhà nước độc quyền quản lý. Mọi hành vi liên quan đến ma túy luôn phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo thấy rằng: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo Phạm Thị H đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo là không có. Về nhân thân: Bị cáo Phạm Thị H là người có nhân thân xấu, đã nhiều lần bị Tòa án xét xử đều về các tội liên quan đến ma túy, nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học và sửa chữa, nay vẫn tiếp tục phạm tội, đồng thời thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật và thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện.

[5] Trên cơ sở xem xét, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy, cần xét xử nghiêm đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo và đảm bảo tính răn đe, phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo không có công việc làm, không có tài sản riêng, nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với 0,335gam ma túy Heroine còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động Nokia màu đen, số IMEI 354204108851411 và số tiền 240.000đ đã thu giữ của bị cáo, xác định không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng cần tạm giữ số tiền 240.000đ để đảm bảo thi hành án.

[8] Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA Lead màu trắng bạc, gắn biển kiểm soát 12K7-3229, số khung: RLHJF 24029Y121958, số máy: JF24E - 0151262 thu giữ khi bắt quả tang bị cáo Phạm Thị H. Quá trình điều tra, xác minh thấy rằng: Chiếc xe có số khung, số máy nêu trên đăng ký tên Doanh nghiệp tư nhân S, địa chỉ số 38 N, phường Đ, thành phố Lạng Sơn, biển đăng ký theo xe là 12P1 - 4595, do bà Trần Thị Kim H chủ doanh nghiệp mua từ năm 2009; năm 2012 bà Trần Thị Kim H bán chiếc xe trên cho 1 người không quen biết. Chị Nguyễn Thị Vân L mua lại chiếc xe HONDA Lead, số khung RLHJF 24029Y121958, số máy: JF24E - 0151262 với 1 người đàn ông không quen biết từ đầu năm 2019, khi mua, chiếc xe đã gắn biển kiểm soát 12K7-3229, nhưng không có giấy đăng ký xe. Ngày 29/4/2021 chị Nguyễn Thị Vân L cho bị cáo Phạm Thị H mượn để đi lại, việc bị cáo Phạm Thị H sử dụng xe đi mua ma túy chị Nguyễn Thị Vân L không biết. Chiếc biển kiểm soát 12K7-3229 gắn theo xe là biển số của xe mô tô hiệu FERROLI đăng ký tên chủ sở hữu là Hoàng Văn S, trú tại xã B, huyện C, tỉnh Lạng Sơn mua năm 2009, đến cuối năm 2009 thì anh Hoàng Văn S bán lại cho 1 người không quen biết. Ngày 16/7/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Lạng Sơn đã chuyển chiếc xe mô tô trên cho Đội Cảnh sát giao thông Công an thành phố Lạng Sơn để tiếp tục xử lý theo quy định, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[9] Xét lời luận tội và mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[10] Đối với người phụ nữ tên P đã bán ma túy cho bị cáo Phạm Thị H vào ngày 29/4/2021, do bị cáo không biết rõ lai lịch, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh làm rõ, Hội đồng xét xử không xem xét.

[11] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.

[12] Bị cáo và các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 50; điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

Căn cứ khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; khoản 1, 4 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Thị H (tên gọi khác là Phạm Thị L) phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Phạm Thị H (tên gọi khác là Phạm Thị L) 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 29/4/2021.

3. Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 0,335gam ma túy Heroine còn lại sau giám định, được đựng trong 01 phong bì thư đã niêm phong.

Trả cho bị cáo Phạm Thị H 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen có số IMEI 354204108851411 máy cũ đã qua sử dụng và số tiền 240.000đ (hai trăm bốn mươi ngàn đồng), nhưng cần tạm giữ số tiền 240.000đ (hai trăm bốn mươi ngàn đồng) để đảm bảo thi hành án.

(Vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Lạng Sơn theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/8/2021).

4. Về án phí: Buộc bị cáo Phạm Thị H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung ngân sách Nhà nước.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt, có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

296
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 99/2021/HS-ST

Số hiệu:99/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Lạng Sơn - Lạng Sơn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về