TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 97/2023/HS-ST NGÀY 05/07/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 05 tháng 7 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh T xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 90/2023/HSST ngày 31 tháng 5 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/2023/QĐST-HS ngày 23 tháng 6 năm 2023 đối với bị cáo:
Đặng Văn T, Sinh ngày 05/10/1970 tại T Nơi cư trú: Thôn P, xã V, thành phố T, tỉnh T.
Trình độ văn hóa: 07/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do;Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Đặng Thanh T (được tặng thưởng Huy chương giải phóng, Huân chương kháng chiến hạng 3, Huân chương hạng 3 vì có thành tích phục vụ trong Quân đội nhân dân Việt Nam) và bà Trần Thị L (được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng 3), có vợ là Nguyễn Thị L1, có 02 con, con lớn sinh năm 1990, con nhỏ sinh năm 1998. Tiền án: Không; Tiền sự: Không.
Nhân thân: Năm 2013, bị áp dụng biện pháp đưa vào Trung tâm chữa bệnh- Giáo dục- Lao động xã hội thời hạn 12 tháng theo Quyết định số 1674/QĐ-CT, ngày 11/6/2013 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố T.
Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 30/3/2023 đến ngày 02/4/2023 chuyển tạm giam đến nay. Có mặt.
* Người chứng kiến:
- Anh Phạm Ngọc B, sinh năm 1976, trú tại thôn T, xã V, thành phố T, tỉnh T. Vắng mặt.
- Anh Lê Anh T, sinh năm 1992, trú tại thôn T, xã B, thành phố T, tỉnh T. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ 15 phút ngày 30/3/2023, Đặng Văn T đi xe ôm của người không quen biết từ nhà đến khu vực đê sông Trà Lý, thuộc tổ 04, phường Kỳ Bá, thành phố T, tỉnh T gặp và mua của một người nam giới khoảng 30 tuổi không biết tên, địa chỉ 200.000 đồng được 01 gói ma túy rồi cất giấu vào túi quần bên phải Toản đang mặc và đi tìm chỗ để sử dụng. Đến khoảng 13 giờ 45 phút cùng ngày, khi Toản đi đến khu vực thôn Đình Phùng, xã Vũ Đông, thành phố T, tỉnh T, thì bị tổ công tác Công an thành phố T phát hiện. Đặng Văn T đã tự giác lấy ra từ trong túi quần bên phải đang mặc giao nộp cho tổ công tác 01 gói bên ngoài được gói bằng giấy tráng kim màu trắng, bên trong có chứa chất bột màu trắng dạng cục và khai nhận đó là Heroine mua về để bản thân sử dụng. Kiểm tra người Toản thu giữ 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SamSung vỏ màu xanh, đã cũ.
Tại Bản kết luận giám định số 465/KL-KTHS(MT) ngày 31/3/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh T kết luận: Mẫu vật quản lý của Đặng Văn T gửi giám định là ma túy, loại Heroin (Heroine) có khối lượng 0,1433 gam (Không phẩy một nghìn bốn trăm ba mươi ba). Heroin STT: 09 Danh mục IA phụ lục kèm theo Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ (bút lục số 16).
Tại bản cáo trạng số 98/CT- VKSTPTB ngày 30 tháng 5 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh T truy tố Đặng Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Văn T thành khẩn khai nhận hành vi đã thực hiện. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đặng Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, 2 điều 51, điều 38, điều 50 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo từ 01 năm 03 tháng tù đến 01 năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/3/2023. Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu của Đặng Văn T còn lại sau giám định, trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung vỏ màu xanh, đã cũ.
Bị cáo đồng ý với nội dung bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T và nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Trong quá trình điều tra và truy tố cũng như tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Khoảng 13 giờ 45 phút ngày 30/3/2023 tại khu vực thôn Đình Phùng, xã Vũ Đông, thành phố T, tỉnh T, tổ công tác Công an thành phố T, tỉnh T phát hiện, bắt quả tang Đặng Văn T có hành vi tàng trữ trái phép trên người 01 gói ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1433 gam, mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến độc quyền quản lý các chất gây nghiện của nhà nước, làm lan tràn tệ nạn ma túy trong cộng đồng, gây nhiều tác động xấu đến xã hội. Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi do mình thực hiện, nhưng vì mắc nghiện nên vẫn cố ý phạm tội. Tại phiên tòa cũng như tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của những người chứng kiến và còn được chứng minh bằng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, do vậy hành vi của Đặng Văn T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
“Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt từ 01 năm đến 05 năm ...
C, Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR - 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam...”.
[3] Như vậy Viện kiểm sát thành phố T truy tố bị cáo Đặng Văn T về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng người đúng tội, [4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị đưa đi cai nghiện bắt buộc nhưng không từ bỏ được ma túy nên tiếp tục tàng trữ để sử dụng tuy nhiên bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự. Bị cáo khai báo thành khẩn, có bố mẹ đẻ là người có công với cách mạng nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
[5] Khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự còn quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm", xét bị cáo Toản không có việc làm và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng của vụ án: Theo quy định tại Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Số ma túy tịch thu của Đặng Văn T còn lại sau giám định là vật Nhà nước cấm lưu hành, tàng trữ, sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung vỏ màu xanh, đã cũ, là tài sản hợp pháp của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả cho bị cáo.
[7] Các vấn đề khác: Về nguồn gốc số ma túy Đặng Văn T khai mua của một người nam giới khoảng 30 tuổi không biết tên, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra, xử lý.
[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp tiền án phí theo quy định của pháp luật [9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50; Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106; Điều 136 Điều 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: Bị cáo Đặng Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” 2. Xử phạt bị cáo Đặng Văn T 01 (một) năm 01 (một) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 30/3/2023.
3. Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu của Đặng Văn T còn lại sau giám định, trả lại bị cáo Đặng Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung vỏ màu xanh đã cũ.
(Các vật chứng trên có đặc điểm mô tả như trong Biên bản giao nhận vật chứng đã được chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh T ngày 30/5/2023).
thẩm.
4. Về án phí: Bị cáo Đặng Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ Bị cáo Đặng Văn T có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 05/7/2023.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 97/2023/HS-ST
Số hiệu: | 97/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/07/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về